DẠY VÀ HỌC. Văn học Miền Nam (2) Văn học miền Nam từ 1954 đến 1975 là bài tổng luận văn chương cùa Thụy Khê viết tại Paris tháng 10 năm 2007 Bản Văn Việt, đọc lại và sửa chữa ngày 4/7/2014, Nguồn:vanviet. Dạy và Học chép lại trên Quà tặng xứ mưa của Ngô Minh. Đây là bài biên khảo công phu và là một tư liệu quý cần tham khảo.
VĂN HỌC MIỀN NAM (II)
Văn học Miền Nam từ 1954 đến 1975Thụy Khê
Sau 1954, ở Miền Nam có thể phân biệt hai lớp trí thức văn nghệ sĩ:
Thế
hệ đầu, gồm những người đã từng hoạt động và nổi danh từ tiền chiến hoặc
trước như: Hồ Biểu Chánh, Nhất Linh, Lê Văn Trương, Tam Lang, Nguyễn
Vỹ, Đỗ Đức Thu, Vi Huyền Đắc, Phùng Tất Đắc, Vũ Bằng, Tchya Đái Đức
Tuấn, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Đức Quỳnh, Đào Đăng Vỹ, Đỗ Thúc Vịnh, Tạ Tỵ,
Lý Văn Sâm, Tam Ích, Thiên Giang, Thê Húc, Lê Văn Siêu, Thẩm Thệ Hà, Phi
Vân, Phú Đức, … các nhà thơ như Tương Phố, Đông Hồ, Mộng Tuyết, Vũ
Hoàng Chương, Đinh Hùng, Bàng Bá Lân, Quách Tấn, … các nhạc sỹ như Lê
Thương, Hùng Lân, Thẩm Oánh, Phạm Duy, Dương Thiệu Tước, v.v. Trừ các
nhạc sĩ như Phạm Duy, Dương Thiệu Tước… vẫn còn hoạt động mạnh, các nhà
văn nhà thơ trong thế hệ này không còn sức thu hút như trước mặc dù họ
vẫn có mặt trên văn đàn; Nhất Linh với tờ Văn hoá ngày nay và hai tác phẩm giá trị Xóm Cầu Mới và Dòng sông Thanh Thuỷ,
Vũ Hoàng Chương vẫn làm thơ, vẫn được mọi người xưng tụng, nhưng dường
như các ông đã bị thời đại và lớp trẻ đẩy lùi vào quá khứ. Đinh Hùng là
trường hợp đặc biệt sự nghiệp thi ca bắc cầu giữa thời tiền chiến và
chia đôi Nam Bắc, nhưng thơ Đinh Hùng mang dấu vết của thời lãng mạn,
trở thành một giá trị “cổ điển”.
Sự
hình thành nền văn học Miền Nam nằm trong tay thế hệ thứ nhì, là những
người bắt đầu vào nghiệp giảng dạy, viết biên khảo, sáng tác, ít lâu
trước và phần lớn sau 1954. Chính họ là những người đã góp phần xây dựng
một nền văn học, khác hẳn tiền chiến, nhiều người đã cập nhật hoặc phổ
biến tư tưởng hiện đại của thế giới bên ngoài vào Việt Nam.
Phía
nhà giáo, triết Tây, như Lê Tôn Nghiêm, Trần Văn Toàn, Trần Thái Đỉnh,
Nguyễn Văn Trung, Trần Bích Lan, v.v., triết Đông như Nguyễn Đăng Thục,
Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Khắc Kham, Nghiêm Toản, Kim
Định, Nhất Hạnh, v.v. Phần biên khảo với: Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi, Lê
Ngọc Trụ, Lê Văn Đức, Lê Văn Lý, Trương Văn Chình, Đào Văn Tập, Phạm Thế
Ngũ, Vương Hồng Sển, Thanh Lãng, Nguyễn Ngu Í, Nguyễn Văn Xuân, Lê
Tuyên, Đoàn Thêm, Hoàng Văn Chí, Nguyễn Bạt Tụy, Phan Khoang, Phạm Văn
Sơn, Nguyễn Thế Anh, Nguyễn Khắc Ngữ, Nguyễn Văn Sâm, v.v.
Về
thơ với Nguyên Sa, Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền, Cung Trầm Tưởng, Tô
Thùy Yên, Bùi Giáng, Viên Linh, Hoàng Trúc Ly, Nhã Ca, Trần Dạ Từ, Phạm
Thiên Thư, Nguyễn Đức Sơn, Du Tử Lê, v.v..
Về
văn, như Bình Nguyên Lộc, Võ Phiến, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Doãn Quốc
Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Duy Thanh, Mặc Thu, Mặc Đỗ, Thanh
Nam, Nhật Tiến, Linh Bảo, Nguyễn Thị Vinh, Phan Du, Đỗ Tấn, Nguyễn Mạnh
Côn, Sơn Nam, Võ Hồng, Minh Đức Hoài Trinh, Túy Hồng, Nhã Ca, Nguyễn
Thị Hoàng, Trùng Dương, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyễn Đình Toàn, Chu Tử,
Viên Linh, Duyên Anh, Phan Nhật Nam, Nguyên Vũ, Vũ Hạnh, Y Uyên, Cung
Tích Biền, Duy Lam, Thế Uyên, Lê Tất Điều, Hoàng Hải Thủy, Văn Quang,
Nguyễn Thụy Long, Phan Lạc Tiếp, Thế Nguyên, Thế Phong, Diễm Châu, Thảo
Trường, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Mộng Giác, Ngô Thế Vinh, Trần Thị Ngh,
v.v.
Về phê bình văn học như Tam Ích, Cao Huy Khanh, Lê Huy Oanh, Đỗ Long Vân, Đặng Tiến, Uyên Thao, Huỳnh Phan Anh, v.v.
Một trong những tác phẩm có tính cách giao thời và chuyển hướng văn học, ở trong Nam là cuốn Nhốt gió
của Bình Nguyên Lộc, xuất hiện năm 1950, dưới thời kháng chiến, nhưng
không có màu sắc đấu tranh mà lại mang tính cách đổi mới văn học, mở đầu
một lối viết truyện, Bình Nguyên Lộc không gọi là truyện ngắn mà gọi là
tân truyện (dịch chữ nouvelle của Pháp) và ông có một quan niệm, một định nghiã rõ ràng về tân truyện. Có thể coi Nhốt gió đánh dấu sự cách tân truyện ngắn, trong Nam, thập niên 50; và Giao thừa của Vũ Khắc Khoan (1949), ở ngoài Bắc, là bản kịch phi lý đầu tiên trong văn chương Việt Nam.
Báo chí và văn học
Hoạt
động văn học và báo chí ở trong Nam hầu như không bị gián đoạn trong
thời kháng Pháp, cho nên có thể nói, Miền Nam giữ được một sinh hoạt báo
chí và văn học liên tục và tương đối tự do từ cuối thế kỷ XIX cho đến
1975, ngay cả dưới thời Pháp thuộc.
Trong
địa hạt báo chí, Sài gòn xưa nay vẫn là trung tâm của báo chí, ngoài
những nhật báo lớn đã xuất hiện từ trước, như tờ Thần Chung, sau đổi
thành Tiếng Chuông của Đinh Văn Khai, Sài Gòn Mới của bà Bút Trà, v.v.
khi người Bắc di cư vào Nam có thêm tờ Tự Do, tiếp đến Ngôn Luận. Đó là
những nhật báo lớn có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng. Hoạt động báo
chí ở Sài Gòn càng ngày càng phát triển, theo Vũ Bằng, đến tháng 12 năm
1963, ở Sài Gòn có tới 44 tờ báo ra hàng ngày.
Tự Do
là nhật báo đầu tiên của người di cư, quy tụ những tên tuổi như: Tam
Lang (Vũ Đình Chí), Mặc Thu (Lưu Đức Sinh), Mặc Đỗ (Đỗ Quang Bình), Vũ
Khắc Khoan, Như Phong (Lê Văn Tiến); Nguyễn Hoạt (Hiếu Chân), Đinh Hùng
(Hoài Điệp Thứ Lang, Thần Đăng), Phạm Tăng…
Theo lời nhà văn Mặc Đỗ: “Nghị định cho phép Tự Do xuất bản do chính tôi ký [lúc ấy ông làm việc ở Bộ Thông tin cùng với Vũ Khắc Khoan], tôi tập hợp ban chủ trương [...] Có giấy phép rồi phải lo tìm vốn. May sao có tổ chức quốc tế International Rescue Committee (IRC) sẵn sàng tài trợ cho tờ báo [...]
Từ phút đầu tôi nghĩ ra và bàn với Khoan đồng ý cho tới ngày cuối cùng
của tờ báo tuyệt đối không một ảnh hưởng nào từ bất kỳ đâu tới đường lối
và hoạt động của tờ Tự Do [...] Ban chủ trương (in rõ mỗi ngày trên măng-xét) chỉ có Tam Lang, Vũ Khắc Khoan, Đinh Hùng, Mặc Thu, Như Phong và tôi. [...]
Anh Tam Lang chủ nhiệm lo điều hành, Mặc Thu lo trị sự tiền bạc, Vũ
Khắc Khoan là người trực tiếp liên lạc với J. Buttinger của IRC, tôi
không dự. Sau một lượt tài trợ ban đầu, Tự Do tự nó đứng vững (lập
trường hợp với độc giả di cư, tài tổ chức bán báo lo trị sự) còn có lời
là khác. Tuy ở trong ban chủ trương Vũ Khắc Khoan rất ít đến toà báo và
không hề viết một bài. Tôi lo cho Tự Do chạy rồi thì để anh em làm” (trích bài “Văn học Miền Nam, tờ Tự Do, nhóm Quan Điểm và Văn học hải ngoại, Mặc Đỗ trả lời Nguyễn Tà Cúc”, Khởi Hành số 98, tháng 12/2004).
Theo lời họa sĩ Phạm Tăng: Như Phong Lê Văn Tiến là linh hồn của tờ báo. Tháng giêng năm 1956, Tự Do
bị đưa ra toà vì hai bài xã luận của Nguyễn Hoạt đả phá khiá cạnh tiêu
cực của chính quyền và những tranh biếm họa của Phạm Tăng chế giễu bà
Nhu và chế độ. Phạm Tăng được trắng án, nhưng Nguyễn Hoạt và Mặc Thu bị
tù ba tháng. Ít lâu sau Tự Do đình bản. Có thể nói, Tự Do là cơ sở báo chí đầu tiên quy tụ những khuôn mặt trí thức di cư, và nó đã làm đúng vai trò của một tờ báo tự nhận là “tiếng nói của người Việt tự do” lúc bấy giờ.
-Về
mặt văn học, nhóm Quan Điểm do Vũ Khắc Khoan thành lập với Nghiêm Xuân
Hồng, Mặc Đỗ, từ Hà Nội. Vũ Khắc Khoan đã in kịch trên báo Phổ Thông từ
1948: Thằng cuội ngồi gốc cây đa (1948), Giao Thừa (1949), tùy bút Mơ Hương Cảng (1953),
và đạo diễn kịch tại nhà Hát Lớn. Nhóm Giao Điểm (tên nhà xuất bản do
Mặc Đỗ điều hành) được người đương thời gọi là nhóm “trí thức tiểu tư
sản”, bởi tác phẩm của họ, trong những ngày đầu chia cắt đất nước,
thường có những nhân vật mang nỗi hoang mang, trăn trở của người trí
thức tiểu tư sản trước ngã ba đường: theo bên này, bên kia, hay đứng
ngoài thời cuộc? Nghiêm Xuân Hồng nghiên cứu triết học. Vũ Khắc Khoan,
kịch tác gia, nổi tiếng từ tập truyện ngắn Thần Tháp Rùa (1957) và Mặc Đỗ, nhà văn mà cũng là dịch giả nổi tiếng.
-Nhóm
Sáng Tạo, theo Trần Thanh Hiệp, trước tiên, là một nhóm sinh viên hoạt
động trong Tổng hội Sinh viên Hà Nội, trước 1954, gồm bốn người: Nguyễn
Sĩ Tế, Doãn Quốc Sĩ, Thanh Tâm Tuyền và Trần Thanh Hiệp, chủ trương
nguyệt san Lửa Việt. Sau 1954, vào Sài Gòn, tiếp tục hoạt động văn nghệ,
làm tuần báo Dân Chủ (Trần Thanh Hiệp và Thanh Tâm Tuyền phụ trách phần
văn nghệ), rồi tờ Người Việt (tiền thân của tờ Sáng Tạo). Lúc ấy Mai
Thảo gửi đến truyện ngắn Đêm giã từ Hà Nội, Thanh Tâm Tuyền đọc, thích và đăng ngay (Xem Trong đất trời nhau…,
Thanh Tâm Tuyền, Tạp chí thơ, Cali, số mùa Xuân 1998). Nhóm có thêm Mai
Thảo. Sau mở rộng với Lữ Hồ, Ngọc Dũng, Duy Thanh, Quách Thoại. Trên
Sáng Tạo, ngoài những tên tuổi kể trên còn thường xuyên thấy: Nguyên Sa,
Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, Dương Nghiễm Mậu, họa sĩ Thái
Tuấn.
Sáng
Tạo số đầu ra tháng 10 năm 1956. Sáng Tạo bộ cũ ngừng ở số 27 (tháng
12/58), và bộ mới tiếp tục đến số 7 (tháng 3/62) thì ngừng hẳn. (tài
liệu của Viên Linh trong bài Mai Thảo riêng tây, Khởi Hành số 16, tháng 8/1997).
Sáng
Tạo do Mai Thảo chủ trương và kiếm nguồn tài trợ. Trong câu chuyện
riêng tư với chúng tôi, tháng 7/97 tại Cali, khi hỏi ông: “Thưa anh, Sáng Tạo thành lập bằng tiền của ai?” Mai Thảo trả lời: “Bằng
cái hợp đồng tôi ký với với một thằng Mỹ ở Virginia, không biết bây giờ
sống chết thế nào, đó là cái hợp đồng bán báo, không có điều gì cần
giấu diếm hết, đại khái nếu mình in 5000 tờ, thì nó mua đứt cho mình
2000, vừa đủ tiền in, tiền giấy, không có cái nghiã gì khác hết, và cũng
không có điều kiện gì khác hết”. Hỏi: “Hình như có lúc anh nhiều tiền lắm, anh tiêu vung lên, bao bè bạn?” Trả lời: “Những
bạn văn khác, thường thường họ phải đi dạy học để đưa tiền cho vợ con.
Tôi chỉ đi chơi với Phạm Đình Chương, Vũ Khắc Khoan. Thường thường tụi
nó không có tiền, không có phương tiện để đi chơi đêm, tôi thì lúc đó
nhiều tiền lắm. Tôi best sellers mà”.
- Bình Nguyên Lộc: chủ trương tờ Nhân Loại từ 1956 đến 1958, rồi từ 1959, tờ Vui sống.
- Bách Khoa
ra đời tháng 1/ 1957 và sống đến 1975. Bách Khoa là nguyệt san văn học
nghệ thuật sống lâu nhất, ra được tất cả 426 số. Bách Khoa do Huỳnh Văn
Lang, một công chức cao cấp trong Viện hối đoái sáng lập, điều hành và
tài trợ trong những năm đầu, Lê Ngộ Châu làm thư ký toà soạn. Đến 1963,
khi ông Diệm đổ, Huỳnh Văn Lang bị bắt, bị tù, mới trao hẳn cho Lê Ngộ
Châu. Bách Khoa quy tụ được nhiều tầng lớp nhà văn khác nhau trong mọi
lứa tuổi. Những cây bút nổi tiếng cộng tác thường xuyên với Bách Khoa là
Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, Nguyễn Ngu Ý, Vũ Hạnh, Võ Hồng, Đoàn Thêm,
Nguyễn Văn Xuân, Bình Nguyên Lộc…. Theo Võ Phiến, trong thời kỳ cực
thịnh, tức là khoảng 1959-1963, mỗi số Bách Khoa bán được 4500 đến 5000,
nhưng báo Văn (ra sau) còn bán chạy hơn.
- Tạp chí Văn hoá ngày nay của Nhất Linh ra đời ngày 17/6/1958, được 11 số thì đình bản. Nguyễn Thị Vinh chủ trương tiếp các tờ Tân Phong, Đông Phương, theo chiều hướng Văn hoá ngày nay.
- Tạp chí Đại học,
tờ báo của Viện Đại học Huế do Linh mục Cao Văn Luận, Viện trưởng, làm
chủ nhiệm, ra đời năm 1958 ở Huế, và sống đến năm 1964. Trên Đại học, xuất hiện những bài đầu tiên của Nguyễn Văn Trung, người sau này sẽ có ảnh hưởng lớn đến sinh viên và trí thức.
-Văn Nghệ của Lý Hoàng Phong (1959) và Dương Nghiễm Mậu.
- Thế kỷ XX của Nguyễn Khắc Hoạch (do Thế Nguyên điều hành) (1960).
-Văn học của Phan Kim Thịnh, từ 1962 đến 1975.
v.v.
Đó
là những tờ báo xuất hiện dưới thời ông Diệm, thời kỳ mà sự kiểm duyệt
còn tương đối khắt khe. Sau khi ông Diệm đổ, báo chí được tự do hơn. Từ
năm 1963, bắt đầu một giai đoạn mới, xuất hiện những tờ báo khác.
-Tạp chí Văn của Nguyễn Đình Vượng, ra đời ngày 1/1964 và sống đến 1975. Văn do Trần Phong Giao trông nom trong 10 năm, đến 1974 chuyển lại cho Mai Thảo. Văn
cũng quy tụ được nhiều lớp nhà văn ở nhiều lớp tuổi, khắp các khuynh
hướng từ Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền đến Thế Uyên, Nguyễn Mạnh
Côn, Bình Nguyên Lộc… Văn đặc biệt ưu tư đến việc dịch thuật và
giới thiệu văn học nước ngoài. Trần Phong Giao cũng là một dịch giả nổi
tiếng, thêm Trần Thiện Đạo, sống ở Paris, dịch và viết về những phong
trào văn học đang thịnh hành ở Pháp.
- Nguyễn Văn Trung, Thế Nguyên, chủ trương những tờ như Hành Trình (1964-1966, 10 số), Đất Nước (1967-1969, 18 số), Trình Bày (42 số), quy tụ những ngòi bút trẻ, nói lên những vấn đề nóng bỏng của thời đại.
- Nghệ thuật, Mai Thảo, chủ nhiệm, Viên Linh, thư ký toà soạn, số 1 tháng 10/65. Ra được 56 số.
- Giữ thơm quê mẹ của Nhất Hạnh (1965).
- Nghiên cứu văn học,
Thanh Lãng chủ nhiệm, Thế Nguyên, thư ký toà soạn, ra được 10 số từ
11/67 đến 11/68. Tục bản tháng 3/1970 đến số 16 (15/6/1972) thì đình
bản.
- Tin Văn của nhóm Lữ Phương, Vũ Hạnh.
- Gió mới, Hiện đại của Nguyên Sa.
- Vấn đề và Ý thức của Vũ Khắc Khoan,
- Khởi Hành (1969-1972) báo của quân đội, do Viên Linh làm Thư ký toàn soạn.
- Thời Tập (1972-1975) của Viên Linh.
- Đối diện của Nguyễn Ngọc Lan,
- Thái độ của Thế Uyên
- Đời của Chu Tử, v.v.
(những ngày, tháng, xuất hiện của các báo, chúng tôi ghi theo tài liệu của Võ Phiến, Viên Linh, và Nguyễn Văn Trung).
Các nhóm, các khuynh hướng
Về các nhóm, Viên Linh trong cuốn Chiêu niệm văn chương về Vũ Hoàng Chương, viết:
“Các nhà văn xuất hiện thường xuyên, trên nhật báo, qua các nhà xuất
bản, nhất là trên các báo định kỳ, và thành từng nhóm. Lý lịch văn
chương và sắc thái địa phương của họ rất tương đồng, tùy theo nhóm tạp
chí trên đó họ góp mặt. Đa số các nhà văn Miền Nam qui tụ trên các tờ
tuần báo Đời Mới, Nhân Loại, và nhật báo như Tiếng Chuông, Sàigon Mới
(Hồ Hữu Tường, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Kiên Giang, Lưu Nghi, Thẩm Thệ
Hà, Trang Thế Hy…). Các nhà văn gốc Miền Trung trên tờ Văn Nghệ Mới,
Bách Khoa (Võ Thu Tịnh, Nguyễn Văn Xuân, Võ Phiến, Đỗ Tấn, Vũ Hạnh, Bùi
Giáng, Võ Hồng, Nguyễn Thị Hoàng); các nhà văn “di cư” xuất hiện trên
các tờ Đất Đứng, Sáng Tạo, và trên các nhật báo như Tự Do, Ngôn Luận (Đỗ
Thúc Vịnh, Nguyễn Hoạt, Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn
Sỹ Tế, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền) hay Văn Nghệ (Lý Hoàng Phong, Dương
Nghiễm Mậu, Viên Linh, Nguyễn Đức Sơn), Hiện Đại (Nguyên Sa, Trần Dạ Từ,
Nhã Ca). Tờ Chỉ Đạo, Phụng Sự, Tiền Tuyến quy tụ các nhà văn quân đội
hay quân nhân đồng hoá như Nguyễn Mạnh Côn, Mặc Thu, Thanh Nam, Phan
Nhật Nam, Thảo Trường…” (Trích Chiêu Niệm Văn Chương, Khởi Hành, Cali, 2000, trang 16-17).
Về các khuynh hướng khác nhau, Viên Linh viết: “Khuynh
hướng Phật giáo có các tờ Tư Tưởng, Vạn Hạnh với Tuệ Sỹ, Bùi Giáng,
Phạm Công Thiện, Nguyễn Hữu Hiệu; khuynh hướng Thiên chúa giáo La Mã có
Hành Trình, Đối Diện với Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Diễm Châu,
Thế Nguyên. Mặc dù đảng Cộng Sản bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, song
các nhà văn theo Cộng Sản như Nguyễn Ngọc Lương, Minh Quân, Vũ Hạnh vẫn
tạo được diễn đàn riêng (Tin Văn ) hay hiện diện trong tổ chức Văn Bút
dưới thời linh mục Thanh Lãng làm chủ tịch. Những tờ như Văn, Phổ Thông,
Văn Học, qui tụ các nhà văn không có lập trường chính trị biểu hiện rõ
rệt, mà thuần túy văn thơ cổ điển như Đông Hồ, Mộng Tuyết, Nguyễn Vỹ,
Bùi Khánh Đản, hay văn nghệ thời đại, sinh hoạt thành phố như Nguyễn
Đình Toàn, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Túy Hồng; những tờ về nghệ thuật trình
diễn hay về phụ nữ quy tụ các nhà văn như Tùng Long, An Khê, Lê Xuyên,
Nguyễn Thụy Long, Hoàng Hải Thủy, Văn Quang…” (Viên Linh, sđd, trang 17-18).
Về giới cầm bút sau 1963, Nguyễn Văn Trung viết: “Giới
cầm bút sau 1963, họ là những người hồi 1954 trên dưới mười tuổi theo
gia đình vào Nam hoặc sinh trưởng lớn lên ở Miền Nam hầu hết có tú tài
và tốt nghiệp đại học. Số lượng giới trẻ cầm bút này càng ngày càng đông
đảo theo đà thành lập các đại học ở các tỉnh Huế, Đà Lạt, Đà Nẵng, Nha
Trang, Cần Thơ, Long Xuyên, Tây Ninh và các đại học tư ở Sài Gòn như Vạn
Hạnh, Minh Đức… Họ trưởng thành về tuổi đời và nhận thức sau 1963,
trong hoàn cảnh nhiều xáo trộn chính trị, xã hội chiến tranh mở rộng với
sự can thiệp ồ ạt của quân đội nước ngoài. Thời cuộc và chính trị là
thiết thân đối với họ vì bị động viên, đi quân dịch.[...] Do
đó, họ có lối nhìn thời cuộc đất nước và nghệ thuật văn học khác hẳn với
lối nhìn của đàn anh họ viết từ trước 1963.(…) Thơ văn giới trẻ viết
sau 1963 thường theo một xu hướng chung, phản ánh vũ trụ Kafka, như tên
đặt cho một số đặc biệt về thơ văn của Hành Trình, hoặc phản ánh thân
phận những nhân vật Việt Nam tương tự những nhân vật trong tiểu thuyết
Giờ thứ hai mươi lăm của Gheorghiu”. (Hướng về Miền Nam Việt Nam, Nguyễn Văn Trung, Khởi Hành số 92, tháng 6/2004).
Về việc kiểm duyệt ở Miền Nam, Nguyễn Văn Trung viết: “Báo
thì không phải kiểm duyệt nhưng có thể bị tịch thu đưa ra toà. Trong
khuôn khổ chính sách hạn chế tự do chính trị như vậy, nếu không xuất bản
công khai, hợp pháp, vẫn có thể in ronéo, phổ biến, bày bán ngay cả
trên các sạp báo và có thể bị tịch thu… Người cầm bút viết những điều
cấm kỵ, phê phán chính sách này, chính sách kia của nhà nước, thậm chí
họp nhau viết kháng thư phản đối, đăng trên báo mà không lo ngại về an
ninh chính trị của bản thân gia đình bạn bè. Nói cách khác, viết phê
phán mà không sợ nhà nước.
Thời
Việt Nam Cộng hoà (1955-1975), những gì tôi viết thành sách đưa kiểm
duyệt, cuốn được phép xuất bản, cuốn không, hoặc những bài báo sau gom
lại thành sách đưa kiểm duyệt thường được phép, nhưng bỏ một số bài và
có thể nói rõ những bài đó bị kiểm duyệt. Đây là tình trạng chung, do đó
người thời sau muốn tìm hiểu những người cầm bút thời kỳ 1955-1975 cần
lưu ý tìm đọc không phải chỉ sách được xuất bản công khai hợp pháp mà cả
những sách không xuất bản được, nhưng vẫn có và còn đó trong các tạp
chí và chính những bài đăng trong các tạp chí không được xuất bản thành
sách, mới phản ánh trung thực tâm tư người viết về thời kỳ họ sống”. (Nguyễn Văn Trung, bài đã dẫn).
*
Tóm
lại, sau 1954: tờ báo đẩy mạnh việc đổi mới văn học là tờ Sáng Tạo, ra
đời cùng với hai tác phẩm chủ chốt của Thanh Tâm Tuyền: tập thơ Tôi không còn cô độc (1956) và tiểu thuyết Bếp lửa (1957). Tờ báo chú trọng đến việc giới thiệu văn chương nước ngoài là tờ Văn
của Nguyễn Đình Vượng và Trần Phong Giao. Bách Khoa là tạp chí văn học
sống lâu nhất và quy tụ những khuynh hướng chính trị đối chọi nhất.
Nguyễn Hiến Lê ghi lại trong hồi ký: “Tư tưởng chính trị của những
cây viết nòng cốt của Bách Khoa có khi trái ngược nhau: Vũ Hạnh thiên
cộng, sau theo cộng. Võ Phiến chống cộng. Đoàn Thêm, Phan Văn Tạo, không
ưa cộng nhưng cũng không đả; không thích Mỹ nhưng cũng không nói ra [...] Tôi, có lẽ cả Nguyễn Ngu Ý và Lê Ngộ Châu có cảm tình với kháng chiến [...]
Mặc dầu vậy, các anh em trong toà soạn vẫn giữ tình hoà hảo với nhau.
Xu hướng phản nhau như Vũ Hạnh và Võ Phiến mà vẫn trọng tư tưởng của
nhau, ít nhất trong 10 năm đầu. Đó là điểm tôi quý nhất. (Trích Đời viết văn của tôi, của Nguyễn Hiến Lê, nxb Văn Nghệ, Cali 1986, trang 143).
Nhờ
hệ thống báo chí phát triển, quần chúng độc giả đông đảo đủ mọi thành
phần, các nhà văn nổi tiếng như Mai Thảo, Bình Nguyên Lộc, Túy Hồng, Nhã
Ca, Duyên Anh, Chu Tử, Thanh Nam, v.v. đều sống bằng ngòi bút một cách
dư giả. Họ là những người viết chuyên nghiệp. Nhiều nhà văn có nhà xuất
bản riêng. Nguyễn Hiến Lê trong 30 năm biên khảo và dịch thuật đã viết
được 100 quyển sách trước 75, và 20 cuốn sau 75. Nguyễn Văn Trung, ngoài
lượng sách về triết học, văn học, in trước 75, trong những công trình
sau 75, có bộ Lục Châu Học, nghiên cứu về văn học Miền Lục tỉnh
Nam Kỳ, hiện nay chưa in, nhưng những người nghiên cứu trong và ngoài
nước vẫn thường sử dụng mà không nói xuất xứ.
Những
nhà văn như Hồ Hữu Tường, Bình Nguyên Lộc, Mai Thảo… cũng đều có những
số lượng tiểu thuyết trên dưới 30 cuốn. Về sáng tác, lượng nhiều thì
phẩm có giảm, nhưng đó là cái giá mà nhà văn phải trả.
Một thành phần độc giả đa dạng, nhiều từng lớp khác nhau. Trong giai đoạn đầu từ 56 đến 63: độc giả có học đọc Bách Khoa, Văn Hoá Ngày Nay… lớp trẻ cấp tiến đọc Sáng Tạo, lớp trí thức đọc nhóm Quan Điểm.
Từ 1963 trở đi, báo chí trở nên đa dạng, tờ Văn
có một chỗ đứng riêng biệt trong sự tiếp cận với văn học nước ngoài, và
cũng là tạp chí văn học bán chạy nhất thời ấy. Và những tờ như Đất Nước, Hành Trình, Trình Bày… nói đến những vấn đề thiết thân của con người trước chính trị và chiến tranh. Những tờ như Đối Diện của Nguyễn Ngọc Lan chống lại chính quyền…
Về
sự lựa chọn tác giả, có thể nói: Lớp trẻ bụi đời thích đọc Duyên Anh.
Lớp sống vũ bão thích Chu Tử. Túy Hồng, Trùng Dương, Nguyễn Thị Thụy Vũ,
Nguyễn Thị Hoàng, Nhã Ca, phản ảnh lớp phụ nữ tân tiến, nhận thức chính
mình qua thân xác. Lớp trí thức thích cách đặt vấn đề của Vũ Khắc
Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng. Lớp trẻ lãng mạn giao thời thích đọc
Mai Thảo. Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu là những tác giả khó, đòi
hỏi người đọc một trình độ trí thức cao. Quần chúng bình dân thích Lê
Xuyên, Tùng Long… Học sinh trường Tây đọc văn chương ngoại quốc qua
tiếng Pháp, tiếng Anh. Học sinh trường Việt đọc các tác phẩm ngoại quốc
qua bản dịch hoặc phóng tác.
Đặc điểm
Đặc
điểm chính của nền văn học Miền Nam từ 1954 đến 1975, là đã thoát khỏi
văn học thế kỷ XIX, giã từ lãng mạn tiền chiến. Nhiều nhà văn tìm cách
xây dựng tư tưởng trên nền triết học hiện đại, đưa con người về hướng
tìm hiểu chính mình. Triết học hiện sinh xuất hiện dưới nhiều hình thức:
phòng trà tửu quán, ăn chơi, bụi đời, là tầng thấp nhất; ở mức cao hơn,
nó hậu thuẫn cho tác phẩm: con người quay về khảo sát chính mình, nhận
thức chính mình, với những nhân vật của Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Dương
Nghiễm Mậu… Cách mô tả của Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền, nhiều
chỗ, cho thấy các ông đã dùng hiện tượng luận trong sự mổ xẻ và phân
tích. Để áp dụng tư tưởng triết học vào thực tế văn học một cách vừa
phải, dễ hiểu, đã có các ngòi bút như Nguyên Sa, vừa là giáo sư triết
vừa là nhà thơ, như Nguyễn Văn Trung vừa là giáo sư đại học vừa viết
sách triết học và phê bình văn học. Quan niệm dấn thân của Sartre, qua
Nguyễn Văn Trung, thâm nhập vào đời sống giới trẻ: Hoàng Phủ Ngọc Tường,
Lữ Phương, Nguyễn Đắc Xuân, là học trò của Nguyễn Văn Trung, do ảnh
hưởng quan niệm dấn thân của Sartre mà vào bưng hồi 1968. Cuốn Ca tụng thân xác của Nguyễn Văn Trung cũng đã ảnh hưởng ít nhiều đến các nhà văn phụ nữ trong lối viết mạnh bạo về thân xác của họ.
Tóm
lại, triết học hiện sinh, chủ nghiã siêu thực và phân tâm học, giúp một
số tác giả đào sâu thêm nhiều vấn đề trọng yếu của con người, của đất
nước, đặt lại vấn đề chiến tranh. Kịch của Vũ Khắc Khoan phát triển khía
cạnh phi lý trong đời sống. Thanh Tâm Tuyền trong thơ tự do, khai phá
vùng tiềm thức con người bằng những cách tạo hình mới lạ. Truyện của
Dương Nghiễm Mậu đào sâu cái trống rỗng ghê ghớm trong hiện sinh con
người, bị tha hoá trong chiến tranh và nhược tiểu. Mai Thảo vẽ lại một
thời kháng chiến đầy ảo tưởng, và tạc những bộ mặt hư vô, chán chường,
sống vật vờ trong say sưa, nơi vũ trường thành thị. Võ Phiến đào sâu
xuống những mất mát của con người khi phải bứt khỏi nguồn cội, tra khảo
vùng bản năng sâu kín của tính dục. Phan Nhật Nam trình bày những bi đát
của đời lính, những kẻ cầm súng bắn vào quê hương mình. Bình Nguyên Lộc
tìm về nguồn cội của dân tộc di dân từ Bắc vào Nam, chiếm hữu đất đai
của người Chàm, người Chân Lạp, tìm sống trong rừng đước, rừng mắm, vươn
lên từ hai yếu tố cơ bản: đất và nước. Nguyễn thị Hoàng, Túy Hồng, Thụy
Vũ, Trùng Dương, Nhã Ca, Trần Thị Ngh… thể hiện tâm linh táo bạo của
người phụ nữ thời đại, chao đảo trước một thứ nữ quyền vừa thành hình
qua sự nhận diện thân xác, và bị dằn vặt trong một xã hội vẫn còn chưa
hẳn thoát khỏi đạo lý Khổng Mạnh, v.v.
Mỗi
nhà văn có một vùng khai phá riêng. Tính chất đa dạng ấy khiến cho văn
học Miền Nam, qua các ngòi bút khác nhau, đã phản ánh được thân phận con
người trong xã hội chiến tranh, bằng những hình thức sáng tạo mới, khác
hẳn tiền chiến, tạo cho văn học Việt Nam một bộ mặt trưởng thành trong
tâm thức nhà văn và tâm thức độc giả.
Thụy Khuê
Paris, tháng 10/2007
Bản Văn Việt, đọc lại và sửa chữa ngày 4/7/2014
(Nguồn:vanviet)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét