DẠY VÀ HỌC. Thầy Nguyễn Hiến Lê sinh thời viết "Để tôi đọc lại" gồm những suy nghĩ tản mạn nhớ và quên, sau này lưu lại thành một tài liệu khá thú vị. Tôi học đòi người xưa chép thành thư mục dạy và học một số bài viết không nỡ quên: Đại học Đông Dương - sự đoạn tuyệt với qía khứ ? (Trần Thị Phương Hoa); Thân phận người Thầy (Nguyễn Khánh Trung); Khai phá và hoàn thiện con người tự do (Hoàng Tụy), Trường tôi và lòng thương yêu gửi lại (Lưu Trọng Hiếu) ; Người Thầy với Dạy và Học (Hoàng Kim)... Câu chuyện Dạy và Học còn dài . Mời bạn thưởng thức cà phê sớm. Đọc lại và suy ngẫm.
Đại học Đông Dương- sự đoạn tuyệt với quá khứ?[1]
Bài viết trình bày khái quát về lịch sử hình thành và phát triển
của Đại học Đông Dương- thiết chế đại học hiện đại đầu tiên ở Việt Nam.
Mặc dù Việt Nam có truyền thống đại học gắn liền với tên gọi có lịch sử
ngàn năm- Quốc Tử Giám, di sản của nó dường như không được tiếp nối ở
trường Đại học mới. Đại học Đông Dương đã thay đổi cơ cấu nhiều lần
trong giai đoạn từ 1907 đến 1945. Sau lần khai giảng đầu tiên năm 1907,
trường có một giai đoạn mười năm hoạt động trầm lắng. Lần khai giảng thứ
hai năm 1917 mở ra một hình thức mới cho trường- đó là mô hình bách
khoa với nhiều trường kỹ thuật. Giai đoạn thứ ba từ 1932 đến 1945
khẳng định diện mạo của trường với ba thành tố: Trường Y, trường Luật
và trường Khoa học. Chương trình giảng dạy hiện đại và trình độ chuyên
môn của những trường này ngày càng phụ thuộc vào các trường đại học ở
Pari mà ít có dấu vết từ nền học vấn cổ điển của Đại học Việt Nam xưa.
Vào đầu thế kỷ XX, giáo dục Việt Nam trải nghiệm quá trình hiện đại hoá
và phương Tây hoá mạnh mẽ. Hệ thống trường Hán học sớm bị bãi bỏ ở Nam
Kỳ. Ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, hệ thống trường Pháp-Việt chính thức thay thế
các trường Nho học từ năm 1918. Giáo dục đại học cũng đổi mới về căn
bản. Năm 1907, một trường đại học kiểu mới được thiết lập ở Hà Nội, cũng
là trường đại học duy nhất trên toàn xứ Đông Dương. Đây là bước ngoặt
trong lịch sử đại học Việt Nam. Mặc dù ở Việt Nam đã tồn tại một trường
đại học có bề dày lịch sử gần ngàn năm (Quốc tử giám), trường Đại học
Đông Dương dường như được xây dựn theo mô hình phưong Tây hoàn toàn và
không hề có mối liên hệ nào với truyền thống đại học của Việt Nam. Bài
viết này xem xét quá trình phát triển của Đại học Đông Dương từ khi
thành lập đến năm 1944, đặc biệt chú trọng đến sự cách biệt giữa mô hình
đại học mới với nền đại học cổ điển Việt Nam.
1. Nỗ lực đầu tiên của Đại học Đông Dương (1907)
Động cơ dẫn tới việc ngày 15/6/1906 Toàn quyền Đông Dương Paul Beau ký quyết định thành lập Đại học Đông Dương tại Hà Nội hiện vẫn còn là vấn đề tranh cãi. Ít nhất có ba quan điểm liên quan đến sự kiện này. Học giả Nguyễn Hiến Lê cho rằng quyết định của Toàn quyền Beau là một hành động mang tính thoả hiệp của nhà cầm quyền Pháp nhằm lấy lòng các nho sĩ Việt Nam. Theo Nguyễn Hiến Lê, các nhà sáng lập Đông Kinh nghĩa thục trong đó có cụ Bá Trạc, Trúc Đàm và Chân Thiết đã viết thư yêu cầu Thống sứ Bắc Kỳ bãi bỏ thi cử kiểu cũ và thiết lập trường Cao đẳng đại học. Việc Paul Beau mở đại học là “kết quả cho sự vận động này”[2]. Một số nhà sử học cho rằng việc Pháp mở trường đại học là nhằm thu hút giới Nho sĩ Việt Nam, hạn chế học sinh Việt Nam sang Nhật theo trào lưu Đông Du đang nổi lên do Phan Bội Châu lãnh đạo[3]. Tác giả Gail Kelly, một chuyên gia về giáo dục Việt Nam thời Pháp thuộc không nhìn thấy động cơ học vấn trong việc thành lập Đại học Đông Dương và chỉ coi đây là một hành động mang tính hành chính khi nhận định “Beau và người tiền nhiệm của ông ta là Doumer coi trường đại học cũng như các công trình thuỷ lợi ở đồng bằng song Cửu Long, như hệ thống đường sắt, cầu cống, đường xá mà họ xây dựng ở vào thời điểm giao nhau của thế kỷ XIX và XX”[4].
Về mặt chính trị, Beau là người chủ trương ủng hộ hợp tác[5]. Trong quá trình tại vị (1902- 1908), Toàn quyền Beau đã lập ra ba cơ quan quản lý giáo dục ở Bắc Kỳ: 1)Hội đồng giáo dục Bắc Kỳ (Conseil Local de l’Instruction publique au Tonkin)(1904); 2) Nha Học chính Đông Dương (Direction Général de l’Enseignement) và các Sở Học chính, bao gồm Sở Học chính Bắc Kỳ (1905) ; 3) Hội đồng Hoàn thiện giáo dục Bản xứ (Conseil de perfectionnement de l’Enseignement indigène en Indochine) (1906).Việc mở trường Đại học Đông Dương năm 1907 thể hiện nỗ lực hợp tác với Nho sĩ và trí thức Việt Nam. Tuy nhiên, không có ghi chép nào cho thấy trường đại học có duy trì truyền thống đại học cổ điển mà các học giả Việt Nam đã theo đuổi gần ngàn năm.
Mặc dù Đại học Đông Dương được xây dựng trên nền tảng một dự án đầy tham vọng, hoạt động ngắn ngủi của trường cho thấy việc mở trường chỉ mang tính “nghị quyết, giấy tờ” mà thiếu tính thực dụng. Trước khi trường khai giảng cuối năm 1907, các chính trị gia đã đề xuất một chương trình đại học rất đồ sộ. Theo quyết định ngày 15/6/1907của Toàn quyền Beau, đại học Đông Dương gồm năm trường thành viên là trường Luật và Hành chính, trường Khoa học, trường Y, trường Công chính, trường Văn khoa[6]. Ngày 24/9/1907, Toàn quyền Đông Dương đưa ra một dự án mới liên quan đến chương trình Đại học[7]. Theo đó, Đại học Đông Dương sẽ có những khoá học sau: toán, ngành kỹ thuật và vũ trụ, vật lý và hoá học đại cương, hoá công nghệ, động vật học, địa chất, triết học, tiếng Pháp và văn học Pháp, lịch sử đại cương, địa lý đại cương, lịch sử Đông Dương và Viễn Đông, luật của nước Pháp, luật và hành chính Việt Nam, kinh tế chính trị và luật thương mại, khoa học giáo dục, thực hành giáo dục. Ngoài ra, trường đại học phải có ba phòng thí nghiệm vật lý, hoá học và vạn vật học. Tất cả các khoá học được giảng dạy bằng tiếng Pháp. Trường Đại học nhận sinh viên thoả mãn các điều kiện sau: tốt nghiệp trường Chasseloup Laubat[8], hoặc có bằng Bổ túc Trung học (Complémentaire)[9], hoặc Cử nhân, Tú tài biết thành thạo tiếng Pháp. Ứng cử viên không có bằng cấp gì nhưng nếu được Hội đồng trường đại học thông qua cũng có thể được nhận.
Khi Đại học Đông Dương mở năm 1907, chỉ duy nhất có trường Y đang hoạt động (mở từ năm 1902). Học giả Nguyễn Hiến Lê có mô tả lại quang cảnh khai trường năm 1907 như sau “Trường đại học mở thật, không rõ là văn khoa hay luật khoa, y khoa, chỉ biết hôm khai trường, một số nhà tân học và cựu học Đông Kinh nghĩa thục lại nghe, nhưng may lắm chỉ có cụ Tốn, cụ Vĩnh là hiểu lõm bõm được ít, còn thì ù ù cạc cạc cả”[10]. Theo Đinh Xuân Lâm, ngày 10/11/1907 Đại học Đông Dương đã tổ chức lễ khai giảng trọng thể. Năm học đầu trường có 193 sinh viên, gồm 94 sinh viên mới được tuyển chọn, 37 sinh viên trường Y. Đầu tư cho trường là 15 ngàn đồng Đông Dương[11]. Tuy nhiên, nỗ lực đầu tiên lập trường đại học đã thất bại[12]. Trường Đại học đã đóng cửa sau một thời gian ngắn hoạt động do nhiều nguyên nhân, trong đó có việc không đủ sinh viên theo học[13].
2. Cốt lõi của Đại học Đông Dương: trường Y và trường Luật
Trường Y và trường Luật là những trường đầu tiên của Đại học Đông Dương và luôn có số sinh viên nhập học đông nhất (Xem hình 1).
Trường Y thành lập năm 1902 như một nỗ lực nhằm hạn chế cách chữa bệnh truyền thống mà người Pháp cho là nguy hiểm cả về mặt y học lẫn chính trị. Chính quyền Pháp coi các thày lang bản địa là mối nguy do họ không chỉ di chuyển các nơi để chữa bệnh mà còn tìm cách tuyên truyền tinh thần chống Pháp[14]. Trong khi đó, khí hậu nhiệt đới nóng ẩm và thức ăn không đảm bảo vệ sinh chính là nguồn gây bệnh tật nhanh chóng, đặc biệt dễ lây sang người nước ngoài. Do đó, cần áp dụng các phương pháp điều trị của phương Tây để ngăn ngừa bệnh tật và dịch bệnh. Tuy nhiên, hệ thống y tế kiểu mới đòi hỏi các thiết bị và dịch vụ hiện đại, đắt tiền mà ngân sách và nguồn nhân lực không thể đáp ứng ngay được. Ý tưởng thành lập một trường y đào tạo cán bộ y tế bản xứ được đưa ra khá sớm. Năm 1898 Toàn quyền Doumer đã đề cập đến việc lập trường y “Trường Y Đông Dương sẽ có vai trò khiêm tốn là đào tạo cán bộ bản xứ với những kiến thức sơ đẳng về lý thuyết ngành y, miễn sao họ trở thành những “nhân viên vệ sinh”[15]. Điều đó có nghĩa là trường Y Đông Dương không thể ngang bằng với trường Y ở nước Pháp mà chỉ là một cơ sở đào tạo “công nhân y tế”, thực hiện những công việc đơn giản như tiêm phòng vắc xin hay phổ biến kiến thức vệ sinh tại khu dân cư.
Ngày 8/1/1902 trường Y Hà Nội (École de Médecine de Hanoi)được
thành lập dưới quyền trực tiếp của Toàn quyền Đông Dương. Đây là trường
được thành lập sớm nhất và hoạt động ổn định nhất trong trường Đại học
Đông Dương, dù tên và cơ quan quản lý trực tiếp của trường có một vài
thay đổi qua các thời kỳ. Năm 1907, trường đổi tên thành trường Y Đông
Dương. Năm 1909, trường trở lại với tên gọi trường Y Hà Nội và trực
thuộc Thống sứ Bắc Kỳ. Năm 1913, Toàn quyền Đông Dương lại nắm quyền
giám sát trường Y và trường đổi tên thành trường Y Đông Dương.
Hình 2 cho thấy sự thay đổi cơ cấu của trường Y Đông Dương trong khoảng thời gian từ 1929 đến 1944. Những năm 1932-1935 đánh dấu giai đoạn mới trong sự phát triển của nhà trường. Khoa Y học và Dược học Đông Dương bị xoá bỏ (1934 and 1935). Khoa Y học và Dược học đại cương phát triển thành các khoa đào tạo bác sĩ và dược sĩ. Những khoa này được công nhận là khoa trực thuộc trường Y Paris. Trong vòng 5 năm (1939-1944) số người đăng ký nhập học tăng hai lần, đạt hơn 200 sinh viên vào năm học 1944-1945.
Trường Luật và Hành chính cũng là một thành viên quan trọng trong Đại học Đông Dương. Trường này có mục tiêu đào tạo “các nhân viên cho bộ máy hành chính Đông Dương”, chính là mục tiêu tối thượng của Đại học Đông Dương, theo khảo sát của Gail Kelly về quan điểm của chính quyền Pháp đối với chức năng của ngành đại học Đông Dương[16]. Số lượng sinh viên đăng ký theo học trường Luật lên tới 594 năm học 1943-1944, cao nhất so với sinh viên các trường thành viên còn lại. Tuy nhiên, trong số 594 sinh viên, chỉ có 86 người học để lấy bằng Cử nhân, số còn lại là những người đương chức theo học để nâng cao trình độ phục vụ công việc đang làm.
3. Đại học Đông Dương- hoạt động trở lại lần thứ hai năm 1917Mười năm sau thử nghiệm đầu tiên, Đại học Đông Dương mở cửa trở lại, cũng vào dịp Albert Sarraut lên nhậm chức Toàn quyền lần thứ hai[17]. Ngày 8/7/1917, Nha Cao đẳng (Direction de l’Enseignement Supérieur) thành lập[18]. Nha Cao đẳng có chức năng thiết lập, tổ chức các trường đại học và đề xuất chương trình cho các trường cao đẳng và đại học ở Đông Dương. Tất cả các trường cao đẳng đều quy tụ trong Đại học Đông Dương, đặt tại Hà Nội. Thành viên của Đại học Đông Dương gồm trường Y và Dược, trường Thú Y, trường Bách Khoa (Công Chính, Hoá, Điện, Mỏ, Vật Lý và Khoa học Tự nhiên), trường Nông Lâm, trường Thương mại, trường Đóng tàu và Đánh bắt cá, trường Luật và Hành chính, trường Sư phạm.
Lễ khai giảng của Đại học Đông Dương (ngày 28/4/1917) đã được mô tả chi tiết trong 15 trang của tạp chí Nam Phong[19]. Theo đó, tới dự lễ khai giảng có những đại diện cao cấp nhất nhất gồm Vua Khải Định, Toàn quyền Albert Sarraut, Giám đốc Đại học Đông Dương- Tiến sĩ Cognacq. Theo diễn văn khai mạc của TiếnsĩCognacq, Đại học Đông Dương gồm những trường sau: trường Y và Dược, trường Thú Y, trường Nông Lâm, trường Luật và Hành chính, trường Sư phạm.
Tại thời điểm mở cửa trở lại lần thứ hai, Đại học Đông Dương vẫn chưa phải là một đại học được công nhận ngang bằng với các đại học bên Pháp. Ông Phạm Quỳnh coi trường đại học ở Đông Dương chỉ là nơi đào tạo các «kỹ thuật viên lành nghề» chứ chưa phải là « một toà lâu đài hàn lâm» đào tạo nên các học giả »[20]. Một trong những nguyên nhân dẫn tới « đẳng cấp thấp » của Đại học Đông Dương chính là do trình độ của sinh viên. Phải tới năm 1925, hệ thống trường phổ thông ở Bắc Kỳ mới đào tạo được các tú tài bản xứ (chương trình 12-13 năm)[21]. Trước đó, học sinh tốt nghiệp Cao đẳng Tiểu học (10 năm)[22] cũng đã được nhận vào Đại học.
Năm 1926, báo Đông Pháp chỉ trích sự yếu kém của sinh viên Đại học Đông Dương trong đó có đoạn: “Trường Đại học đó chẳng qua là họp mấy trường chuyên môn lại, tương tự như những trường dạy canh nông, cơ khí, thương mại, chứ không phải như Đại học đường Sorbonne, hoặc như Đại học ở Montpellier, Nancy...”[23]. Điểm yếu của Đại học Đông Dương chính là ở việc thiếu nguồn nhân lực, giáo viên cũng như sinh viên, đồng thời kinh phí cho hoạt động của trường cũng còn nhiều hạn chế.
4. Giai đoạn từ 1932 tới 1945- thu hẹp số lượng trường thành viên nhưng nâng cao chất lượng đào tạo
Cuộc đại suy thoái 1929-1933 gây tác động nặng nề đến kinh tế và xã hội Đông Dương, Đại học Đông Dương cũng không ngoại lệ. Kể từ năm học 1932-1933 một loạt trường trực thuộc Đại học Đông Dương phải đóng cửa, bao gồm trường Sư Phạm[24], trường Công chính, trường Thương mại, trường Nông nghiệp (Xem hình 2). Chỉ còn ba trường hoạt động gồm trường Y, trường Luật và Hành chính, trường Mỹ thuật. Năm 1939, trường Mỹ thuật tách khỏi đại học Đông Dương, đứng độc lập thành Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Năm 1941 trường Cao đẳng Khoa học được thiết lập, trực thuộc Đại học Đông Dương. Cùng thời gian này, các trường Cao đẳng như Cao đẳng Nông nghiệp, Cao đẳng Thú y, Cao đẳng Công chính, Địa chính được thành lập như những trường độc lập, nằm ngoài Đại học Đông Dương.
Mặc dù trường đại học hạn chế số lượng trường thành viên, uy tín chuyên môn của Đại học Đông Dương tăng dần. Kể từ năm 1932, trường Y và trường Luật trở thành một phân hiệu của trường Y và Luật Paris. Từ năm 1941, hai trường này được gọi là faculté. Nội dung chương trình của trường Luật chiểu theo chương trình của trường Luật Paris: năm thứ nhất sinh viên học Luật Dân sự, Luật La Mã và Kinh tế; năm thứ hai học Luật Hình sự, Bộ máy hành chính Pháp; năm thứ ba học Luật Thương mại, Luật Quốc tế và Luật Tố tụng. Sau hai năm đầu, sinh viên qua hết các kỳ thi thì được lấy bằng Tú tài Luật[25] (Bachelier en droit). Tuy nhiên bằng này không có mấy ý nghĩa.Sinh viên phải học hết năm thứ ba để lấy bằng Cử nhân Luật.Ởnăm thứ ba,sinh viên tiếp tục học Luật Đông Dương, gồm có hành chính Đông Dương, Luật Dân sự, Luật hình sự và Luật tố tụng Việt Nam, kinh tế Đông Dương. Muốn tốt nghiệp phải trải qua hai kỳ thi viết và hai kỳ thi vấn đáp. Trước năm 1932, sinh viên trường Luật Hà Nội muốn lấy bằng bằng Cử nhân Luật phải sang Pháp. Kể từ năm 1932, hàng năm có một giáo sư từ Paris sang làm chủ tịch Hội đồng chấm thi tốt nghiệp. Sinh viên đỗ tốt nghiệp được trường Luật Paris cấp bằng. Giáo sư được cử sang Đại học Đông Dương phải tuân thủ đúng yêu cầu của các trường đại học ở Pháp, tức là phải có bằng Tiến sĩ Luật và có ít nhất ba bằng Cao đẳng Luật học, đồng thời qua một kỳ chuyên môn đặc biệt tổ chức ở Paris (aggregation de droit). Từ năm 1933 đã có các giáo sư chuyên môn (agréges) sang Hà Nội giảng dạy. Một số môn học không đủ người dạy, trường có thể lấy Tiến sĩ Luật nhưng chưa có đủ ba bằng Cao đẳng Luật học. Ngoài ra, có nhiều môn học do giảng viên (chargés de cours) đảm nhiệm. Những người này có thể là các viên chức có bằng Tiến sĩ và có kinh nghiệm thực tiễn (quan toà, quan cai trị..).
Theo chương trình đại học Luật của Pháp, sau khi có bằng Cử nhân, sinh viên mới bắt đầu đi chuyên sâu vào một ngành nào đó, chẳng hạn 1) Công pháp (droit public) gồm có luật hiến pháp, luật cai trị, luật quốc tế; 2)Tư pháp (droit privé) gồm có dân luật, luật hình sự, luật thương mại; 3)Kinh tế học (Economic Politique), 4)Luật La Mã và Lịch sử Pháp luật. Muốn trình Luận án Tiến sĩ, thí sinh phải có ít nhất hai bằng Cao đẳng Luật trong số bốn loại kể trên. Kể từ năm 1941, trường Luật Hà Nội mở thêm ban Cao đẳng Tư pháp. Muốn lấy bằng Tiến sĩ, sinh viên có thể lấy một bằng Tư pháp ở Việt Nam và sang Pháp lấy một bằng Cao đẳng Luật nữa để bảo vệ luận án.
Mặc dù trường Luật Hà Nội phỏng theo đúng mô hình Đại học Luật của Pháp, nguồn nhân lực và cơ sở vật chất còn rất hạn chế. Tạp chí Thanh nghị nhận định như sau “Ngoài sự thiếu thày chuyên môn, trường Luật Hà Nội còn thiếu thốn nhiều sách vở là những khí cụ tối cần cho bậc học cao. Ở đây hiện nay chỉ có sách giáo khoa và mươi thứ tạp chí chuyên môn thông thường; những sách khảo cứu tường tận về một môn khoa học hay một vấn đề, nhất là các tạp chí chuyên môn uy tín toàn cầu viết bằng tiếng ngoại quốc đều thiếu. Điều khuyết điểm đó đã làm cho vài năm trước đây một vài giáo sư ở trường Luật cũng ngần ngại khi nói đến việc lập ban Cao đẳng Luật học”[26]
Tương tự như trường Luật, chất lượng trường Y Hà Nội cũng dần được công nhận. Thành lập năm 1902, hoạt động sớm nhất trong ngạch cao đẳng, trường Y Hà Nội ban đầu chỉ đào tạo các “cán bộ y tế” và nữ hộ sinh (ban nữ hộ sinh lập năm 1904). Đến năm 1907, trường Y Hà Nội có khoá Y sĩ Đông Dương đầu tiên tốt nghiệp[27]. Người Pháp đã rất thận trọng trong việc đào tạo các bác sĩ. Trường Y hoạt động hơn 30 năm mới có sinh viên tốt nghiệp được công nhận vào ngạch bác sĩ y khoa. Ra đời năm 1902 nhưng tới năm 1923 trường Y mới trở thành một trường Cao đẳng kiêm bị Y Dược (Ecole de Plein Exercice de Médecine et de Pharmacie- trường có đầy đủ các khoá học). Giai đoạn này trường vẫn chỉ đào tạo ngạch Y sĩ và Dược sĩ Đông Dương. Kể từ năm 1933, trường có đủ điều kiện để đào tạo ngạch bác sĩ quốc gia (doctorat de E’tat), trường Dược đào tạo dược sĩ hạng nhất (Pharmacien de 1re-classe). Hàng năm giáo sư của Đại học Paris sang chủ toạ kỳ thi tốt nghiệp tại Hà Nội. Năm 1941 trường Y Hà Nội có năm khoa: PCB (Lý-Hoá-Sinh), khoa Y đào tạo bác sĩ đa khoa, khoa Dược đào tạo dược sĩ, Nha khoa, khoa Hộ sinh (Xem hình 2). Ngoài ra còn có 5 phòng thí nghiệm: PCB, phẫu thuật, Dược, Hoá, Vi trùng.
Tuy nhiên, cơ sở vật chất của trường vẫn rất nghèo nàn, đặc biệt là thư viện và phòng thí nghiệm. Thư viện dành cho giáo viên, tiến sĩ và sinh viên năm cuối chỉ có 5000 cuốn sách, 70 đầu tạp chí và báo, đa phần thuộc lĩnh vực Y khoa, tất cả luận văn và luận án đã được bảo vệ tại các trường đại học Pháp. Thư viện cho sinh viên còn có ít sách hơn, theo Thanh nghị đánh giá là không đáp ứng được yêu cầu của một đại học nghiên cứu[28]
Năm 1941, trường Cao đẳng khoa học (école superieur des sciences) được thành lập, trực thuộc Đại học Đông Dương, gồm ba khoa: Toán, Vật lý, Khoa học tự nhiên. Chương trình của trường được đánh giá là nghèo nàn và thua xa đại học ở Paris. Khoa Toán ở Hà Nội chỉ dạy môn toán đại cương, Khoa Vật lý dạy môn Hoá đại cương và SPCN (Physique, Chimie, Histoirenaturelle). Thanh nghị cho rằng trường Cao đẳng Khoa học chỉ mới dựng nên bộ khung và chưa hoàn thiện[29].
5. Giáo viên và sinh viên Đại học Đông DươngHình 3&4 cho thấy mức tăng trưởng của số lượng sinh viên đăng ký theo học. Ở vào
giai đoạn đỉnh cao, năm học 1943-1944, đại học Đông Dương có 1222 sinh viên. Số sinh viên ở các trường Y, Luật và Khoa học lần lượt là 353, 594, 275. Sinh viên Bắc Kỳ chiếm tỉ lệ cao nhất so với bốn xứ còn lại là Nam Kỳ,Trung Kỳ, Lào, Campuchia (Sinh viên Bắc Kỳ chiếm 37% ở trường Y, 48% ở trường Luật, 40% ở trường Khoa học). Số sinh viên Bắc Kỳ chiếm đa số có thể được giải thích do yếu tố gần gũi về địa lý. Ở trường Luật, sinh viên Bắc Kỳ đông gấp bốn lần so với sinh viên từ Nam Kỳ và gấp sáu lần so với sinh viên Trung Kỳ. Sự chênh lệch này có nguyên nhân Bắc Kỳ là trung tâm chính trị hành chính và nhu cầu đào tạo nhân viên đương nhiệm cao hơn nhiều. Trong khi đó, một khảo sát về số sinh viên Việt Nam tại Pháp cho thấy có đến hai phần ba sinh viên Việt Nam theo học tại Pháp (trong tổng số khoảng 500 người vào những năm 1920) là từ Nam Kỳ[30]. Như vậy sinh viên Nam Kỳ có xu hướng lựa chọn các trường đại học tại Pháp thay vì đại học ngoài Hà Nội.
Trường Y tập trung nhiều giáo viên nhất so với các trường còn lại do chương trình của trường đòi hỏi giờ học lý thuyết và thực hành. Số giáo viên của trường tăng từ 22 người năm học 1921-1922 lên 33 năm học 1943-1944. Trường Luật, dù có số sinh viên đông hơn, lại có ít số giáo viên hơn. Năm học 1943-1944 trường Luật chỉ có 14 giáo viên. Giáo sư Trịnh Văn Thảo đã tiến hành một khảo sát xã hội học đối với các giáo viên Đại học Đông Dương năm 1937. Ngoài số ít giáo viên người Việt, phần lớn giáo viên đại học Đông Dương là người Pháp. Người Việt duy nhất đảm nhiệm vị trí giaó sư thực thụ là ông Lê Văn Kim, có hai bằng Tiến sĩ (Luật học và Văn học) từ đại học Paris và được nhận làm giảng viên đại học Đông Dương nhờ sự can thiệp trực tiếp của Toàn quyền Varenne. Thể hiện thái độ phản đối sự đàn áp thô bạo đối với phong trào cách mạng năm 1930, ông Lê Văn Kim đã từ nhiệm khỏi vị trí giảng viên đại học và hoạt động như luật sư[31].
Cũng theo khảo sát xã hội học của Trịnh Văn Thảo, có thể chia các giảng viên đại học Đông Dương làm ba thế hệ. Thế hệ đầu là những người sinh ra vào đúng thời kỳ Pháp đánh chiếm Nam Kỳ và xâm lược Bắc Kỳ lần thứ nhất (1858-1875), tức là có độ tuổi chừng trên dưới 40 khi Đại học Đông Dương khai giảng lần đầu. Thế hệ thứ hai, đông nhất, sinh vào khoảng cuối thế kỷ XIX. Thế hệ này là lực lượng chủ chốt của Đại học Đông Dương, đặc biệt trong giai đoạn phát triển nhất của đại học từ 1930 đến 1945. Thế hệ thứ ba, sinh vào khoảng đầu thế kỷ XX, chiếm số ít. Trung bình, giảng viên đại học Đông Dương có thâm niên 14 năm. Người kỳ cựu nhất là Marchal (28 năm thâm niên) và Le Roy des Barres (30 năm). Hai vợ chồng Paul Mus có tổng thâm niên là 44 năm[32].
Nhiều giáo sư của đại học Đông Dương là những nhà khoa học ưu tú như Yersin, Hiệu trưởng đầu tiên của Đại học Y Hà Nội, người đã chế ra vắc xin chống dịch hạch, Calmette, phát minh ra BCG chống lao, thầy thuốc kiêm nhà dân tộc học Huard. Đội ngũ những giáo sư được tuyển chọn kỹ lưỡng cho đại học Y (đa phần là những người đã tốt nghiệp thạc sĩ Y khoa ở Pháp), cũng như sự gắn bó lâu dài của họ với trường Y Đông Dương đã tạo nên danh tiếng cho nhà trường.
Trong khi đó, các khoa học nhân văn và khoa học tự nhiên được xếp vào nhóm “con nhà nghèo” của đại học Đông Dương. Những người ưu tú nhất đều cống hiến trí tuệ của mình cho các trung tâm tư liệu, thư viện, lưu trữ chứ không phải cho trường đại học[33]. Phía Việt Nam cũng có một số học giả chuyên mảng xã hội và nhân văn đã được Trịnh Văn Thảo kể tên như Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ. Tuy nhiên, đóng góp của họ cho Đại học Đông Dương hết sức mờ nhạt. Các học giả Việt Nam và Pháp đã không thể xây dựng nên một trường đại học Văn khoa hay Nhân văn, thành tố quan trọng tạo nên diện mạo cho nhiều đại học lâu đời trên thế giới. Nền học vấn cổ điển của Việt Nam đã bị giới đại học hiện đại lãng quên hoàn toàn.
Kết luận
Đại học Đông Dương là một thiết chế đại học hoàn toàn mới mẻ ở Việt Nam. Trường đại học này không hề có bất cứ một mối quan hệ nào với trường đại học đã tồn tại gần 1000 năm ở Việt Nam (Quốc Tử Giám). Sự phụ thuộc về mặt chuyên môn của đại học Đông Dương và các trường thành viên của nó vào đại học Paris ở Pháp đã cản trở đại học Đông Dương xây dựng diện mạo riêng, đặc biệt trong việc kế thừa các di sản học vấn truyền thống của Việt Nam cũng như của Lào, Campuchia. Người Pháp đã cương quyết cắt đứt mối dây liên hệ giữa giới trí thức Đông Dương với truyền thống, hướng tới hình thành một diện mạo hoàn toàn mới cho trí thức hiện đại Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung.
Charles Fourniau, Trinh Van Thao, Gilles de Gantès..., Le contact colonial franco-vietnamien. Le premier demi-siècle (1858-1911", Publications de l'Université de Provence, 1999.
Chương Thâu, Hồ Song, Ngô Văn Hoà, Nguyễn Văn Kiệm, Đinh Xuân Lâm (1999), Lịch sử Việt Nam 1897-1918, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Sử học, Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Đào Thị Diến, Sự ra đời của Đại học Đông Dương qua tài liệu lưu trữ, http://100years.vnu.edu.vn/BTDHQGHN/Vietnamese/C1787/2006/03/N7403/
Đông Pháp (1926), “Sự giả trá của trường Đại học Đông Pháp”, ngày 26 tháng 4 năm 1926.
Đinh Xuân Lâm, Từ Đại học Đông Dương đến Đại học Quốc gia Hà Nội, http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=113&CategoryID=6&News=3511, ngày 4/10/2010
Kelly, Gail P. (2000), “The Myth of Educational Planning: The Case of the Indochinese University, 1906-1938”, French colonial education: essays on Vietnam and West Africa, AMS Press, York.
Journal Officiel d’Indochine, 1907, số80, tr.1458.
Lessard, Micheline (1995), Tradition for rebellion: Vietnamese students and teachers and anticolonial resistance, 1888-1931, PhD Dissertation, Cornell University.
Nam Phong(1918), “Về việc ngự giá Bắc tuần”, No11, May 1918, pp. 266-280.
NguyễnHiến Lê (2002), Đông Kinh Nghĩa Thục, Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
Pascale Bezancon, (2002), Une colonization educatrice? L’experience Indochinoise (1860-1945), L’Harmatlan, Paris.
Phạm Hồng Tung, 100 năm Đại học Đông Dương-Đại học Quốc gia Hà Nội: khởi đầu của mô hình giáo dục đại học hiện đại Việt Nam, http://vietbao.vn/Giao-duc/100-nam-Dai-hoc-Dong-Duong-Dai-hoc-Quoc-gia-Ha-Noi-Khoi-dau-cua-mo-hinh-giao-duc-dai-hoc-hien-dai-Viet-Nam/45193969/202/ ngày 11/5/2006
Phạm Quỳnh (1917), “Trường Đại học”, Nam Phong, số 3, tháng 7/1917, tr. 145-152.
Thanh nghị, “Trường Cao đẳng Đông Dương”, só tháng 10/1941.
Thanh nghị(1941), “Trường Cao đẳng Đông Dương hiện tại và tương lai”. số tháng 11/1941.
Thanh nghị, “Trường Khoa học Đông Dương”, số tháng 10/1941.
Trần Thị Phương Hoa (2012), Giáo dục Pháp-Việt ở Bắc Kỳ, 1884-1945, Khoa học xã hội.
Trịnh Văn Thảo, Nhà trường Pháp ở Đông Dương, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội.
Chú thích:
1. Nỗ lực đầu tiên của Đại học Đông Dương (1907)
Động cơ dẫn tới việc ngày 15/6/1906 Toàn quyền Đông Dương Paul Beau ký quyết định thành lập Đại học Đông Dương tại Hà Nội hiện vẫn còn là vấn đề tranh cãi. Ít nhất có ba quan điểm liên quan đến sự kiện này. Học giả Nguyễn Hiến Lê cho rằng quyết định của Toàn quyền Beau là một hành động mang tính thoả hiệp của nhà cầm quyền Pháp nhằm lấy lòng các nho sĩ Việt Nam. Theo Nguyễn Hiến Lê, các nhà sáng lập Đông Kinh nghĩa thục trong đó có cụ Bá Trạc, Trúc Đàm và Chân Thiết đã viết thư yêu cầu Thống sứ Bắc Kỳ bãi bỏ thi cử kiểu cũ và thiết lập trường Cao đẳng đại học. Việc Paul Beau mở đại học là “kết quả cho sự vận động này”[2]. Một số nhà sử học cho rằng việc Pháp mở trường đại học là nhằm thu hút giới Nho sĩ Việt Nam, hạn chế học sinh Việt Nam sang Nhật theo trào lưu Đông Du đang nổi lên do Phan Bội Châu lãnh đạo[3]. Tác giả Gail Kelly, một chuyên gia về giáo dục Việt Nam thời Pháp thuộc không nhìn thấy động cơ học vấn trong việc thành lập Đại học Đông Dương và chỉ coi đây là một hành động mang tính hành chính khi nhận định “Beau và người tiền nhiệm của ông ta là Doumer coi trường đại học cũng như các công trình thuỷ lợi ở đồng bằng song Cửu Long, như hệ thống đường sắt, cầu cống, đường xá mà họ xây dựng ở vào thời điểm giao nhau của thế kỷ XIX và XX”[4].
Về mặt chính trị, Beau là người chủ trương ủng hộ hợp tác[5]. Trong quá trình tại vị (1902- 1908), Toàn quyền Beau đã lập ra ba cơ quan quản lý giáo dục ở Bắc Kỳ: 1)Hội đồng giáo dục Bắc Kỳ (Conseil Local de l’Instruction publique au Tonkin)(1904); 2) Nha Học chính Đông Dương (Direction Général de l’Enseignement) và các Sở Học chính, bao gồm Sở Học chính Bắc Kỳ (1905) ; 3) Hội đồng Hoàn thiện giáo dục Bản xứ (Conseil de perfectionnement de l’Enseignement indigène en Indochine) (1906).Việc mở trường Đại học Đông Dương năm 1907 thể hiện nỗ lực hợp tác với Nho sĩ và trí thức Việt Nam. Tuy nhiên, không có ghi chép nào cho thấy trường đại học có duy trì truyền thống đại học cổ điển mà các học giả Việt Nam đã theo đuổi gần ngàn năm.
Mặc dù Đại học Đông Dương được xây dựng trên nền tảng một dự án đầy tham vọng, hoạt động ngắn ngủi của trường cho thấy việc mở trường chỉ mang tính “nghị quyết, giấy tờ” mà thiếu tính thực dụng. Trước khi trường khai giảng cuối năm 1907, các chính trị gia đã đề xuất một chương trình đại học rất đồ sộ. Theo quyết định ngày 15/6/1907của Toàn quyền Beau, đại học Đông Dương gồm năm trường thành viên là trường Luật và Hành chính, trường Khoa học, trường Y, trường Công chính, trường Văn khoa[6]. Ngày 24/9/1907, Toàn quyền Đông Dương đưa ra một dự án mới liên quan đến chương trình Đại học[7]. Theo đó, Đại học Đông Dương sẽ có những khoá học sau: toán, ngành kỹ thuật và vũ trụ, vật lý và hoá học đại cương, hoá công nghệ, động vật học, địa chất, triết học, tiếng Pháp và văn học Pháp, lịch sử đại cương, địa lý đại cương, lịch sử Đông Dương và Viễn Đông, luật của nước Pháp, luật và hành chính Việt Nam, kinh tế chính trị và luật thương mại, khoa học giáo dục, thực hành giáo dục. Ngoài ra, trường đại học phải có ba phòng thí nghiệm vật lý, hoá học và vạn vật học. Tất cả các khoá học được giảng dạy bằng tiếng Pháp. Trường Đại học nhận sinh viên thoả mãn các điều kiện sau: tốt nghiệp trường Chasseloup Laubat[8], hoặc có bằng Bổ túc Trung học (Complémentaire)[9], hoặc Cử nhân, Tú tài biết thành thạo tiếng Pháp. Ứng cử viên không có bằng cấp gì nhưng nếu được Hội đồng trường đại học thông qua cũng có thể được nhận.
Khi Đại học Đông Dương mở năm 1907, chỉ duy nhất có trường Y đang hoạt động (mở từ năm 1902). Học giả Nguyễn Hiến Lê có mô tả lại quang cảnh khai trường năm 1907 như sau “Trường đại học mở thật, không rõ là văn khoa hay luật khoa, y khoa, chỉ biết hôm khai trường, một số nhà tân học và cựu học Đông Kinh nghĩa thục lại nghe, nhưng may lắm chỉ có cụ Tốn, cụ Vĩnh là hiểu lõm bõm được ít, còn thì ù ù cạc cạc cả”[10]. Theo Đinh Xuân Lâm, ngày 10/11/1907 Đại học Đông Dương đã tổ chức lễ khai giảng trọng thể. Năm học đầu trường có 193 sinh viên, gồm 94 sinh viên mới được tuyển chọn, 37 sinh viên trường Y. Đầu tư cho trường là 15 ngàn đồng Đông Dương[11]. Tuy nhiên, nỗ lực đầu tiên lập trường đại học đã thất bại[12]. Trường Đại học đã đóng cửa sau một thời gian ngắn hoạt động do nhiều nguyên nhân, trong đó có việc không đủ sinh viên theo học[13].
2. Cốt lõi của Đại học Đông Dương: trường Y và trường Luật
Trường Y và trường Luật là những trường đầu tiên của Đại học Đông Dương và luôn có số sinh viên nhập học đông nhất (Xem hình 1).
Hình 1: Số lượng sinh viên đăng ký theo học tại Đại học Đông Dương- Hà Nội
(1913-1944)
Trường Y thành lập năm 1902 như một nỗ lực nhằm hạn chế cách chữa bệnh truyền thống mà người Pháp cho là nguy hiểm cả về mặt y học lẫn chính trị. Chính quyền Pháp coi các thày lang bản địa là mối nguy do họ không chỉ di chuyển các nơi để chữa bệnh mà còn tìm cách tuyên truyền tinh thần chống Pháp[14]. Trong khi đó, khí hậu nhiệt đới nóng ẩm và thức ăn không đảm bảo vệ sinh chính là nguồn gây bệnh tật nhanh chóng, đặc biệt dễ lây sang người nước ngoài. Do đó, cần áp dụng các phương pháp điều trị của phương Tây để ngăn ngừa bệnh tật và dịch bệnh. Tuy nhiên, hệ thống y tế kiểu mới đòi hỏi các thiết bị và dịch vụ hiện đại, đắt tiền mà ngân sách và nguồn nhân lực không thể đáp ứng ngay được. Ý tưởng thành lập một trường y đào tạo cán bộ y tế bản xứ được đưa ra khá sớm. Năm 1898 Toàn quyền Doumer đã đề cập đến việc lập trường y “Trường Y Đông Dương sẽ có vai trò khiêm tốn là đào tạo cán bộ bản xứ với những kiến thức sơ đẳng về lý thuyết ngành y, miễn sao họ trở thành những “nhân viên vệ sinh”[15]. Điều đó có nghĩa là trường Y Đông Dương không thể ngang bằng với trường Y ở nước Pháp mà chỉ là một cơ sở đào tạo “công nhân y tế”, thực hiện những công việc đơn giản như tiêm phòng vắc xin hay phổ biến kiến thức vệ sinh tại khu dân cư.
Hình 2: Số lượng sinh viên theo học các khoa của Đại học Y Hà Nội (1929-1944)
Hình 2 cho thấy sự thay đổi cơ cấu của trường Y Đông Dương trong khoảng thời gian từ 1929 đến 1944. Những năm 1932-1935 đánh dấu giai đoạn mới trong sự phát triển của nhà trường. Khoa Y học và Dược học Đông Dương bị xoá bỏ (1934 and 1935). Khoa Y học và Dược học đại cương phát triển thành các khoa đào tạo bác sĩ và dược sĩ. Những khoa này được công nhận là khoa trực thuộc trường Y Paris. Trong vòng 5 năm (1939-1944) số người đăng ký nhập học tăng hai lần, đạt hơn 200 sinh viên vào năm học 1944-1945.
Trường Luật và Hành chính cũng là một thành viên quan trọng trong Đại học Đông Dương. Trường này có mục tiêu đào tạo “các nhân viên cho bộ máy hành chính Đông Dương”, chính là mục tiêu tối thượng của Đại học Đông Dương, theo khảo sát của Gail Kelly về quan điểm của chính quyền Pháp đối với chức năng của ngành đại học Đông Dương[16]. Số lượng sinh viên đăng ký theo học trường Luật lên tới 594 năm học 1943-1944, cao nhất so với sinh viên các trường thành viên còn lại. Tuy nhiên, trong số 594 sinh viên, chỉ có 86 người học để lấy bằng Cử nhân, số còn lại là những người đương chức theo học để nâng cao trình độ phục vụ công việc đang làm.
3. Đại học Đông Dương- hoạt động trở lại lần thứ hai năm 1917Mười năm sau thử nghiệm đầu tiên, Đại học Đông Dương mở cửa trở lại, cũng vào dịp Albert Sarraut lên nhậm chức Toàn quyền lần thứ hai[17]. Ngày 8/7/1917, Nha Cao đẳng (Direction de l’Enseignement Supérieur) thành lập[18]. Nha Cao đẳng có chức năng thiết lập, tổ chức các trường đại học và đề xuất chương trình cho các trường cao đẳng và đại học ở Đông Dương. Tất cả các trường cao đẳng đều quy tụ trong Đại học Đông Dương, đặt tại Hà Nội. Thành viên của Đại học Đông Dương gồm trường Y và Dược, trường Thú Y, trường Bách Khoa (Công Chính, Hoá, Điện, Mỏ, Vật Lý và Khoa học Tự nhiên), trường Nông Lâm, trường Thương mại, trường Đóng tàu và Đánh bắt cá, trường Luật và Hành chính, trường Sư phạm.
Lễ khai giảng của Đại học Đông Dương (ngày 28/4/1917) đã được mô tả chi tiết trong 15 trang của tạp chí Nam Phong[19]. Theo đó, tới dự lễ khai giảng có những đại diện cao cấp nhất nhất gồm Vua Khải Định, Toàn quyền Albert Sarraut, Giám đốc Đại học Đông Dương- Tiến sĩ Cognacq. Theo diễn văn khai mạc của TiếnsĩCognacq, Đại học Đông Dương gồm những trường sau: trường Y và Dược, trường Thú Y, trường Nông Lâm, trường Luật và Hành chính, trường Sư phạm.
Tại thời điểm mở cửa trở lại lần thứ hai, Đại học Đông Dương vẫn chưa phải là một đại học được công nhận ngang bằng với các đại học bên Pháp. Ông Phạm Quỳnh coi trường đại học ở Đông Dương chỉ là nơi đào tạo các «kỹ thuật viên lành nghề» chứ chưa phải là « một toà lâu đài hàn lâm» đào tạo nên các học giả »[20]. Một trong những nguyên nhân dẫn tới « đẳng cấp thấp » của Đại học Đông Dương chính là do trình độ của sinh viên. Phải tới năm 1925, hệ thống trường phổ thông ở Bắc Kỳ mới đào tạo được các tú tài bản xứ (chương trình 12-13 năm)[21]. Trước đó, học sinh tốt nghiệp Cao đẳng Tiểu học (10 năm)[22] cũng đã được nhận vào Đại học.
Năm 1926, báo Đông Pháp chỉ trích sự yếu kém của sinh viên Đại học Đông Dương trong đó có đoạn: “Trường Đại học đó chẳng qua là họp mấy trường chuyên môn lại, tương tự như những trường dạy canh nông, cơ khí, thương mại, chứ không phải như Đại học đường Sorbonne, hoặc như Đại học ở Montpellier, Nancy...”[23]. Điểm yếu của Đại học Đông Dương chính là ở việc thiếu nguồn nhân lực, giáo viên cũng như sinh viên, đồng thời kinh phí cho hoạt động của trường cũng còn nhiều hạn chế.
4. Giai đoạn từ 1932 tới 1945- thu hẹp số lượng trường thành viên nhưng nâng cao chất lượng đào tạo
Cuộc đại suy thoái 1929-1933 gây tác động nặng nề đến kinh tế và xã hội Đông Dương, Đại học Đông Dương cũng không ngoại lệ. Kể từ năm học 1932-1933 một loạt trường trực thuộc Đại học Đông Dương phải đóng cửa, bao gồm trường Sư Phạm[24], trường Công chính, trường Thương mại, trường Nông nghiệp (Xem hình 2). Chỉ còn ba trường hoạt động gồm trường Y, trường Luật và Hành chính, trường Mỹ thuật. Năm 1939, trường Mỹ thuật tách khỏi đại học Đông Dương, đứng độc lập thành Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Năm 1941 trường Cao đẳng Khoa học được thiết lập, trực thuộc Đại học Đông Dương. Cùng thời gian này, các trường Cao đẳng như Cao đẳng Nông nghiệp, Cao đẳng Thú y, Cao đẳng Công chính, Địa chính được thành lập như những trường độc lập, nằm ngoài Đại học Đông Dương.
Mặc dù trường đại học hạn chế số lượng trường thành viên, uy tín chuyên môn của Đại học Đông Dương tăng dần. Kể từ năm 1932, trường Y và trường Luật trở thành một phân hiệu của trường Y và Luật Paris. Từ năm 1941, hai trường này được gọi là faculté. Nội dung chương trình của trường Luật chiểu theo chương trình của trường Luật Paris: năm thứ nhất sinh viên học Luật Dân sự, Luật La Mã và Kinh tế; năm thứ hai học Luật Hình sự, Bộ máy hành chính Pháp; năm thứ ba học Luật Thương mại, Luật Quốc tế và Luật Tố tụng. Sau hai năm đầu, sinh viên qua hết các kỳ thi thì được lấy bằng Tú tài Luật[25] (Bachelier en droit). Tuy nhiên bằng này không có mấy ý nghĩa.Sinh viên phải học hết năm thứ ba để lấy bằng Cử nhân Luật.Ởnăm thứ ba,sinh viên tiếp tục học Luật Đông Dương, gồm có hành chính Đông Dương, Luật Dân sự, Luật hình sự và Luật tố tụng Việt Nam, kinh tế Đông Dương. Muốn tốt nghiệp phải trải qua hai kỳ thi viết và hai kỳ thi vấn đáp. Trước năm 1932, sinh viên trường Luật Hà Nội muốn lấy bằng bằng Cử nhân Luật phải sang Pháp. Kể từ năm 1932, hàng năm có một giáo sư từ Paris sang làm chủ tịch Hội đồng chấm thi tốt nghiệp. Sinh viên đỗ tốt nghiệp được trường Luật Paris cấp bằng. Giáo sư được cử sang Đại học Đông Dương phải tuân thủ đúng yêu cầu của các trường đại học ở Pháp, tức là phải có bằng Tiến sĩ Luật và có ít nhất ba bằng Cao đẳng Luật học, đồng thời qua một kỳ chuyên môn đặc biệt tổ chức ở Paris (aggregation de droit). Từ năm 1933 đã có các giáo sư chuyên môn (agréges) sang Hà Nội giảng dạy. Một số môn học không đủ người dạy, trường có thể lấy Tiến sĩ Luật nhưng chưa có đủ ba bằng Cao đẳng Luật học. Ngoài ra, có nhiều môn học do giảng viên (chargés de cours) đảm nhiệm. Những người này có thể là các viên chức có bằng Tiến sĩ và có kinh nghiệm thực tiễn (quan toà, quan cai trị..).
Theo chương trình đại học Luật của Pháp, sau khi có bằng Cử nhân, sinh viên mới bắt đầu đi chuyên sâu vào một ngành nào đó, chẳng hạn 1) Công pháp (droit public) gồm có luật hiến pháp, luật cai trị, luật quốc tế; 2)Tư pháp (droit privé) gồm có dân luật, luật hình sự, luật thương mại; 3)Kinh tế học (Economic Politique), 4)Luật La Mã và Lịch sử Pháp luật. Muốn trình Luận án Tiến sĩ, thí sinh phải có ít nhất hai bằng Cao đẳng Luật trong số bốn loại kể trên. Kể từ năm 1941, trường Luật Hà Nội mở thêm ban Cao đẳng Tư pháp. Muốn lấy bằng Tiến sĩ, sinh viên có thể lấy một bằng Tư pháp ở Việt Nam và sang Pháp lấy một bằng Cao đẳng Luật nữa để bảo vệ luận án.
Mặc dù trường Luật Hà Nội phỏng theo đúng mô hình Đại học Luật của Pháp, nguồn nhân lực và cơ sở vật chất còn rất hạn chế. Tạp chí Thanh nghị nhận định như sau “Ngoài sự thiếu thày chuyên môn, trường Luật Hà Nội còn thiếu thốn nhiều sách vở là những khí cụ tối cần cho bậc học cao. Ở đây hiện nay chỉ có sách giáo khoa và mươi thứ tạp chí chuyên môn thông thường; những sách khảo cứu tường tận về một môn khoa học hay một vấn đề, nhất là các tạp chí chuyên môn uy tín toàn cầu viết bằng tiếng ngoại quốc đều thiếu. Điều khuyết điểm đó đã làm cho vài năm trước đây một vài giáo sư ở trường Luật cũng ngần ngại khi nói đến việc lập ban Cao đẳng Luật học”[26]
Tương tự như trường Luật, chất lượng trường Y Hà Nội cũng dần được công nhận. Thành lập năm 1902, hoạt động sớm nhất trong ngạch cao đẳng, trường Y Hà Nội ban đầu chỉ đào tạo các “cán bộ y tế” và nữ hộ sinh (ban nữ hộ sinh lập năm 1904). Đến năm 1907, trường Y Hà Nội có khoá Y sĩ Đông Dương đầu tiên tốt nghiệp[27]. Người Pháp đã rất thận trọng trong việc đào tạo các bác sĩ. Trường Y hoạt động hơn 30 năm mới có sinh viên tốt nghiệp được công nhận vào ngạch bác sĩ y khoa. Ra đời năm 1902 nhưng tới năm 1923 trường Y mới trở thành một trường Cao đẳng kiêm bị Y Dược (Ecole de Plein Exercice de Médecine et de Pharmacie- trường có đầy đủ các khoá học). Giai đoạn này trường vẫn chỉ đào tạo ngạch Y sĩ và Dược sĩ Đông Dương. Kể từ năm 1933, trường có đủ điều kiện để đào tạo ngạch bác sĩ quốc gia (doctorat de E’tat), trường Dược đào tạo dược sĩ hạng nhất (Pharmacien de 1re-classe). Hàng năm giáo sư của Đại học Paris sang chủ toạ kỳ thi tốt nghiệp tại Hà Nội. Năm 1941 trường Y Hà Nội có năm khoa: PCB (Lý-Hoá-Sinh), khoa Y đào tạo bác sĩ đa khoa, khoa Dược đào tạo dược sĩ, Nha khoa, khoa Hộ sinh (Xem hình 2). Ngoài ra còn có 5 phòng thí nghiệm: PCB, phẫu thuật, Dược, Hoá, Vi trùng.
Tuy nhiên, cơ sở vật chất của trường vẫn rất nghèo nàn, đặc biệt là thư viện và phòng thí nghiệm. Thư viện dành cho giáo viên, tiến sĩ và sinh viên năm cuối chỉ có 5000 cuốn sách, 70 đầu tạp chí và báo, đa phần thuộc lĩnh vực Y khoa, tất cả luận văn và luận án đã được bảo vệ tại các trường đại học Pháp. Thư viện cho sinh viên còn có ít sách hơn, theo Thanh nghị đánh giá là không đáp ứng được yêu cầu của một đại học nghiên cứu[28]
Năm 1941, trường Cao đẳng khoa học (école superieur des sciences) được thành lập, trực thuộc Đại học Đông Dương, gồm ba khoa: Toán, Vật lý, Khoa học tự nhiên. Chương trình của trường được đánh giá là nghèo nàn và thua xa đại học ở Paris. Khoa Toán ở Hà Nội chỉ dạy môn toán đại cương, Khoa Vật lý dạy môn Hoá đại cương và SPCN (Physique, Chimie, Histoirenaturelle). Thanh nghị cho rằng trường Cao đẳng Khoa học chỉ mới dựng nên bộ khung và chưa hoàn thiện[29].
5. Giáo viên và sinh viên Đại học Đông DươngHình 3&4 cho thấy mức tăng trưởng của số lượng sinh viên đăng ký theo học. Ở vào
giai đoạn đỉnh cao, năm học 1943-1944, đại học Đông Dương có 1222 sinh viên. Số sinh viên ở các trường Y, Luật và Khoa học lần lượt là 353, 594, 275. Sinh viên Bắc Kỳ chiếm tỉ lệ cao nhất so với bốn xứ còn lại là Nam Kỳ,Trung Kỳ, Lào, Campuchia (Sinh viên Bắc Kỳ chiếm 37% ở trường Y, 48% ở trường Luật, 40% ở trường Khoa học). Số sinh viên Bắc Kỳ chiếm đa số có thể được giải thích do yếu tố gần gũi về địa lý. Ở trường Luật, sinh viên Bắc Kỳ đông gấp bốn lần so với sinh viên từ Nam Kỳ và gấp sáu lần so với sinh viên Trung Kỳ. Sự chênh lệch này có nguyên nhân Bắc Kỳ là trung tâm chính trị hành chính và nhu cầu đào tạo nhân viên đương nhiệm cao hơn nhiều. Trong khi đó, một khảo sát về số sinh viên Việt Nam tại Pháp cho thấy có đến hai phần ba sinh viên Việt Nam theo học tại Pháp (trong tổng số khoảng 500 người vào những năm 1920) là từ Nam Kỳ[30]. Như vậy sinh viên Nam Kỳ có xu hướng lựa chọn các trường đại học tại Pháp thay vì đại học ngoài Hà Nội.
Trường Y tập trung nhiều giáo viên nhất so với các trường còn lại do chương trình của trường đòi hỏi giờ học lý thuyết và thực hành. Số giáo viên của trường tăng từ 22 người năm học 1921-1922 lên 33 năm học 1943-1944. Trường Luật, dù có số sinh viên đông hơn, lại có ít số giáo viên hơn. Năm học 1943-1944 trường Luật chỉ có 14 giáo viên. Giáo sư Trịnh Văn Thảo đã tiến hành một khảo sát xã hội học đối với các giáo viên Đại học Đông Dương năm 1937. Ngoài số ít giáo viên người Việt, phần lớn giáo viên đại học Đông Dương là người Pháp. Người Việt duy nhất đảm nhiệm vị trí giaó sư thực thụ là ông Lê Văn Kim, có hai bằng Tiến sĩ (Luật học và Văn học) từ đại học Paris và được nhận làm giảng viên đại học Đông Dương nhờ sự can thiệp trực tiếp của Toàn quyền Varenne. Thể hiện thái độ phản đối sự đàn áp thô bạo đối với phong trào cách mạng năm 1930, ông Lê Văn Kim đã từ nhiệm khỏi vị trí giảng viên đại học và hoạt động như luật sư[31].
Cũng theo khảo sát xã hội học của Trịnh Văn Thảo, có thể chia các giảng viên đại học Đông Dương làm ba thế hệ. Thế hệ đầu là những người sinh ra vào đúng thời kỳ Pháp đánh chiếm Nam Kỳ và xâm lược Bắc Kỳ lần thứ nhất (1858-1875), tức là có độ tuổi chừng trên dưới 40 khi Đại học Đông Dương khai giảng lần đầu. Thế hệ thứ hai, đông nhất, sinh vào khoảng cuối thế kỷ XIX. Thế hệ này là lực lượng chủ chốt của Đại học Đông Dương, đặc biệt trong giai đoạn phát triển nhất của đại học từ 1930 đến 1945. Thế hệ thứ ba, sinh vào khoảng đầu thế kỷ XX, chiếm số ít. Trung bình, giảng viên đại học Đông Dương có thâm niên 14 năm. Người kỳ cựu nhất là Marchal (28 năm thâm niên) và Le Roy des Barres (30 năm). Hai vợ chồng Paul Mus có tổng thâm niên là 44 năm[32].
Nhiều giáo sư của đại học Đông Dương là những nhà khoa học ưu tú như Yersin, Hiệu trưởng đầu tiên của Đại học Y Hà Nội, người đã chế ra vắc xin chống dịch hạch, Calmette, phát minh ra BCG chống lao, thầy thuốc kiêm nhà dân tộc học Huard. Đội ngũ những giáo sư được tuyển chọn kỹ lưỡng cho đại học Y (đa phần là những người đã tốt nghiệp thạc sĩ Y khoa ở Pháp), cũng như sự gắn bó lâu dài của họ với trường Y Đông Dương đã tạo nên danh tiếng cho nhà trường.
Trong khi đó, các khoa học nhân văn và khoa học tự nhiên được xếp vào nhóm “con nhà nghèo” của đại học Đông Dương. Những người ưu tú nhất đều cống hiến trí tuệ của mình cho các trung tâm tư liệu, thư viện, lưu trữ chứ không phải cho trường đại học[33]. Phía Việt Nam cũng có một số học giả chuyên mảng xã hội và nhân văn đã được Trịnh Văn Thảo kể tên như Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ. Tuy nhiên, đóng góp của họ cho Đại học Đông Dương hết sức mờ nhạt. Các học giả Việt Nam và Pháp đã không thể xây dựng nên một trường đại học Văn khoa hay Nhân văn, thành tố quan trọng tạo nên diện mạo cho nhiều đại học lâu đời trên thế giới. Nền học vấn cổ điển của Việt Nam đã bị giới đại học hiện đại lãng quên hoàn toàn.
Hình 3: Số lượng sinh viên theo học tại trường Y Hà Nội- theo nguồn gốc khu vực.
Hình 4: Số lượng sinh viên theo học tại trường Luật Hà Nội- theo nguồn gốc khu vực.
Kết luận
Đại học Đông Dương là một thiết chế đại học hoàn toàn mới mẻ ở Việt Nam. Trường đại học này không hề có bất cứ một mối quan hệ nào với trường đại học đã tồn tại gần 1000 năm ở Việt Nam (Quốc Tử Giám). Sự phụ thuộc về mặt chuyên môn của đại học Đông Dương và các trường thành viên của nó vào đại học Paris ở Pháp đã cản trở đại học Đông Dương xây dựng diện mạo riêng, đặc biệt trong việc kế thừa các di sản học vấn truyền thống của Việt Nam cũng như của Lào, Campuchia. Người Pháp đã cương quyết cắt đứt mối dây liên hệ giữa giới trí thức Đông Dương với truyền thống, hướng tới hình thành một diện mạo hoàn toàn mới cho trí thức hiện đại Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung.
Tài liệu tham khảo
Annuaire Statistique de l’Indochine(1927), Premier Volume (1913-1922), Direction des Affaires Économiques, Imprimerie d’Extrême-Orient, Hanoi ; Annuaire Statistique de l’Indochine
(1932), Troisième Volume (1930-1931), Gouvernement Général de
l’Indochine, Inspection Générale des Mines et de l’Industrie, Service de
la Statistique Générale de l’Indochine, Imprimerie d’Extrême-Orient,
Hanoi; Annuaire Statistique de l’Indochine (1933), Quatrième
Volume 1931-1932. Gouvernement Général de l’Indochine, Inspection
Générale des Mines et de l’Industrie. Service de la Statistique Générale
de l’Indochine, Imprimerie d’Extrême-Orient, Hanoi; Annuaire Statistique de l’Indochine,
Cinquième Volume (1932-1933), Sixième Volume (1934,1935,1936), Neuvième
Volume (1939-1940), Dixième Volume (1941-1942), Onzième Volume
(1943-1946), Direction des Affaires Économiques et Administratives,
Bureau de la Statistique Générale, Imprimerie d’Extrême-Orient, Hanoi,
Saigon.Charles Fourniau, Trinh Van Thao, Gilles de Gantès..., Le contact colonial franco-vietnamien. Le premier demi-siècle (1858-1911", Publications de l'Université de Provence, 1999.
Chương Thâu, Hồ Song, Ngô Văn Hoà, Nguyễn Văn Kiệm, Đinh Xuân Lâm (1999), Lịch sử Việt Nam 1897-1918, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Sử học, Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Đào Thị Diến, Sự ra đời của Đại học Đông Dương qua tài liệu lưu trữ, http://100years.vnu.edu.vn/BTDHQGHN/Vietnamese/C1787/2006/03/N7403/
Đông Pháp (1926), “Sự giả trá của trường Đại học Đông Pháp”, ngày 26 tháng 4 năm 1926.
Đinh Xuân Lâm, Từ Đại học Đông Dương đến Đại học Quốc gia Hà Nội, http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=113&CategoryID=6&News=3511, ngày 4/10/2010
Kelly, Gail P. (2000), “The Myth of Educational Planning: The Case of the Indochinese University, 1906-1938”, French colonial education: essays on Vietnam and West Africa, AMS Press, York.
Journal Officiel d’Indochine, 1907, số80, tr.1458.
Lessard, Micheline (1995), Tradition for rebellion: Vietnamese students and teachers and anticolonial resistance, 1888-1931, PhD Dissertation, Cornell University.
Nam Phong(1918), “Về việc ngự giá Bắc tuần”, No11, May 1918, pp. 266-280.
NguyễnHiến Lê (2002), Đông Kinh Nghĩa Thục, Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
Pascale Bezancon, (2002), Une colonization educatrice? L’experience Indochinoise (1860-1945), L’Harmatlan, Paris.
Phạm Hồng Tung, 100 năm Đại học Đông Dương-Đại học Quốc gia Hà Nội: khởi đầu của mô hình giáo dục đại học hiện đại Việt Nam, http://vietbao.vn/Giao-duc/100-nam-Dai-hoc-Dong-Duong-Dai-hoc-Quoc-gia-Ha-Noi-Khoi-dau-cua-mo-hinh-giao-duc-dai-hoc-hien-dai-Viet-Nam/45193969/202/ ngày 11/5/2006
Phạm Quỳnh (1917), “Trường Đại học”, Nam Phong, số 3, tháng 7/1917, tr. 145-152.
Thanh nghị, “Trường Cao đẳng Đông Dương”, só tháng 10/1941.
Thanh nghị(1941), “Trường Cao đẳng Đông Dương hiện tại và tương lai”. số tháng 11/1941.
Thanh nghị, “Trường Khoa học Đông Dương”, số tháng 10/1941.
Trần Thị Phương Hoa (2012), Giáo dục Pháp-Việt ở Bắc Kỳ, 1884-1945, Khoa học xã hội.
Trịnh Văn Thảo, Nhà trường Pháp ở Đông Dương, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội.
Chú thích:
[2]Xem NguyễnHiến Lê (2002), Đông Kinh Nghĩa Thục, Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.101-103
[3]Xem Chương Thâu, Hồ Song, Ngô Văn Hoà, Nguyễn Văn Kiệm, Đinh Xuân Lâm (1999), Lịch sử Việt Nam 1897-1918, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Sử học, Khoa học Xã hội, Hà Nội.
[4]Gail P Kelly (2000), “The Myth of Educational Planning: The Case of the Indochinese University, 1906-1938”, French colonial education: essays on Vietnam and West Africa, AMS Press, York, tr.28
[5]Đồnghoá
(assimilation) hay hợp tác (association) với người bản xứ là hai quan
điểm cơ bản trong đường lối cai trị của thực dân Pháp ở Việt Nam. Xem
thêm Trần Thị Phương Hoa (2012), Giáo dục Pháp-Việt ở Bắc Kỳ, 1884-1945,
Khoa học xã hội, tr. 27-30
[6]Xem Đào Thị Diến, “Sự ra đời của Đại học Đông Dương qua tài liệu lưu trữ”, http://100years.vnu.edu.vn/BTDHQGHN/Vietnamese/C1787/2006/03/N740
Đinh Xuân Lâm, “Từ Đại học Đông Dương đến Đại học Quốc gia Hà Nội”, http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=113&CategoryID=6&News=3511, ngày 4/10/2010
Phạm Hồng Tung, “100 năm Đại học Đông Dương-Đại học Quốc gia Hà Nội: khởi đầu của mô hình giáo dục đại học hiện đại Việt Nam”, http://vietbao.vn/Giao-duc/100-nam-Dai-hoc-Dong-Duong-Dai-hoc-Quoc-gia-Ha-Noi-Khoi-dau-cua-mo-hinh-giao-duc-dai-hoc-hien-dai-Viet-Nam/45193969/202/ ngày 11/5/2006
Đinh Xuân Lâm, “Từ Đại học Đông Dương đến Đại học Quốc gia Hà Nội”, http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=113&CategoryID=6&News=3511, ngày 4/10/2010
Phạm Hồng Tung, “100 năm Đại học Đông Dương-Đại học Quốc gia Hà Nội: khởi đầu của mô hình giáo dục đại học hiện đại Việt Nam”, http://vietbao.vn/Giao-duc/100-nam-Dai-hoc-Dong-Duong-Dai-hoc-Quoc-gia-Ha-Noi-Khoi-dau-cua-mo-hinh-giao-duc-dai-hoc-hien-dai-Viet-Nam/45193969/202/ ngày 11/5/2006
[7]Xem Journal Officiel d’Indochine, 1907, số80, tr.1458
[8]Trường
Chasseloup Laubat lập năm 1874, là trường Trung học đầu tiên lập ra ở
Nam Kỳ, lúc đầu là trường Pháp nhưng sau có thêm các lớp Pháp-Việt
[9]Giai đoạn này, trường Thông ngôn là trường duy nhất được gọi là Complementaire ở Bắc Kỳ
[10]Nguyễn Hiến Lê, dd, tr. 103-104
[11]Đinh Xuân Lâm, dd
[12]Hiện
có nhiều ý kiến khác nhau về việc Đại học Đông Dương hoạt động bao lâu
trong lần đầu tiên. Theo trang Web chính thức của Đại học Quốc gia Hà
Nội, Đại học Đông Dương khai giảng lần đầu tháng 11/1907 và đóng cửa sau
đó một năm, xem http://100years.vnu.edu.vn/BTDHQGHN/Vietnamese/C1787/2006/03/N7403/;
Nguyễn Hiên Lê thì cho rằng thời gian hoạt động của trường rất ngắn
ngủi, khoảng một tuần, Xem Nguyễn Hiến Lê (2002), dd, tr.101; Theo
Charles Founiau et al, trường khai giảng ngày 4/11/1907 và đóng cửa
trước khi kết thúc năm học thứ nhất, xem Charles Fourniau, Trinh Van
Thao, Gilles de Gantès..., Le contact colonial franco-vietnamien. Le premier demi-siècle (1858-1911", Publications de l'Université de Provence, 1999, tr. 227
[13]Trường chỉ dạy bằng tiếng Pháp, trong khi số sinh viên đủ trình độ để theo các môn học còn rất hạn chế.
[14]Xem Pascale Bezancon, (2002), Une colonization educatrice? L’experience Indochinoise (1860-1945), L’Harmatlan, Paris, tr.72
[15] Pascale Bezancon, (2002), dd, tr.73
[16]Gail P Kelly (2000), “The Myth of Educational Planning: The Case of the Indochinese University, 1906-1938”, French colonial education: essays on Vietnam and West Africa, AMS Press, York, tr.37
[17]Albert Sarraut đảm nhận hai nhiệm kỳ Toàn quyền Đông Dương. Lần đầu từ năm 1911-1913, lần thứ hai từ năm 1917 đến 1919.
[18]Năm 1924 Nha Cao đẳng sáp nhập với Nha Học chính
[19]Nam Phong(1918), “Về việc ngự giá Bắc tuần”, No11, May 1918, pp. 266-280.
[20]Phạm Quỳnh (1917), “Trường Đại học”, Nam Phong, số 3, tháng 7/1917, tr. 145-152.
[21]Năm 1921, các trường Trung học ở Nam Kỳ đã có các tú tài bản xứ tốt nghiệp nhưng số lượng rất ít
[22]Chương
trình phổ thông gồm 6 năm Tiểu học (lấy bằng Tiểu học Pháp-Việt, còn
gọi là bằng Cơ thuỷ), 4 năm Cao đẳng tiểu học (lấy bằng Thành chung) và 2
đến 3 năm Trung học (lấy bằng Tú tài)
[23]Đông Pháp (1926), “Sự giả trá của trường Đại học Đông Pháp”, ngày 26 tháng 4 năm 1926.
[24]Các lớp của trường Sư phạm được chuyển sang trường Bảo Hộ
[25]Thuật ngữ dùng theo Thanh nghị, “Trường Cao đẳng Đông Dương”, só tháng 10/1941, tr.5
[26]Thanh nghị (1941), “Trường Cao đẳng Đông Dương hiện tại và tương lai”. số tháng 11/1941, tr.4
[27]Theo Thanh nghị 11/1941, dd, tr.5
[28]Thanh nghị, 11/1941, dd, tr. 5
[29]Thanh nghị, “Trường Khoa học Đông Dương”, số tháng 10/1941, tr.2-3
[30]Xem Micheline Lessard (1995), Tradition for rebellion: Vietnamese students and teachers and anticolonial resistance, 1888-1931, PhD Dissertation, Cornell University, tr. 191
[31]Trịnh Văn Thảo, Nhà trường Pháp ở Đông Dương, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội, tr.296
[32]Trịnh Văn Thảo, dd, tr. 295
[33]Xem Trịnh Văn Thảo,dd, tr. 291
Thân phận người thầy
Nguyễn Khánh Trung Tia Sáng ngày 2 tháng 5 năm 2013 |
Người
thầy ngày xưa sống với nghề, được xã hội trọng vọng, có quyền hành và
có tự do trong việc tổ chức giảng dạy và đánh giá học sinh của mình. Còn
người thầy ngày nay trong xã hội ta thì sao?
Chân dung người thầy hiện nay
Người thầy ngày nay nhất là đối với giáo viên phổ thông thực sự là một người “thợ dạy” nghèo về vật chất, vất vả áp lực trong công việc, thiếu tự do và quyền hạn trong chuyên môn, và do đó, cũng chẳng phong phú gì về mặt tinh thần.
Trước hết là chuyện cơm áo gạo tiền. Theo kết quả đề tài khoa học cấp Nhà nước do bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó chủ tịch nước, làm chủ nhiệm cho thấy: “Thu nhập bình quân từ lương và các phụ cấp theo lương trong khoảng từ 3 đến 3,5 triệu đồng/tháng. Tính theo năm công tác thì lương giáo viên sau 13 năm từ 3 đến 3,5 triệu đồng/tháng, sau 25 năm từ 4,1 đến 4,7 triệu đồng/tháng. GV mới ra trường ở cả 3 cấp học nhận mức lương trên dưới 2 triệu đồng/ tháng. Với số lượng GV như hiện nay, theo tính toán của đề tài, chỉ khoảng 50% GV các cấp có thâm niên dạy học từ 13 năm trở lên và được hưởng mức lương bình quân, 50% còn lại được hưởng dưới mức lương bình quân”1.
Lương của giáo viên như thế, trong khi vật giá đắt đỏ, các thầy cô cứ phải sống tằn tiện qua ngày. Nếu hai vợ chồng cùng là giáo viên, nuôi hai đứa con ăn học, thì kể là đói. Có thực mới vực được đạo, bụng mà còn đói thì khó có thể nói chuyện lý tưởng “trồng người”, tiêu cực dạy thêm học thêm, mua bán, trao đổi điểm chác cũng từ đây mà ra, làm nền giáo dục đi xuống, làm hình ảnh người thầy nhếch nhác trong mắt học trò và xã hội.
Về thời gian, trước đây tuy vẫn thiếu thốn, nhưng người giáo viên còn
thong dong về mặt thời gian vì họ chỉ dạy một buổi, nay đa số trường dạy
hai buổi một ngày, nên họ phải có mặt ở trường từ sáng sớm đến chiều,
về tới nhà lại còn phải lo chuyện gia đình, con cái, rồi bao nhiêu
chuyện không tên như soạn giáo án, làm sổ sách, vv. Ngày này qua ngày
khác làm họ mệt mỏi, những người có lý tưởng khi mới vào nghề vì vậy
cũng phai nhạt dần.
Chuyện thiếu thời gian, thu nhập ở trên đã là vấn đề, thì chuyện áp lực trong nghề nghiệp là vấn đề trầm trọng, thường trực đối với người thầy hiện nay. Nhiều giáo viên nói với tôi là họ bị căng thẳng thường trực vì luôn chịu áp lực. Căng thẳng vì phải luôn lo đối phó với các đoàn thanh tra, kiểm tra từ Bộ, từ sở, từ phòng và từ ban giám hiệu trường. Có những đợt thanh tra, dự giờ có báo trước, nhưng cũng có nhiều lúc không báo trước. Để đối phó với các đoàn thanh tra, giáo viên nhiều lúc phải bố trí cho học sinh đóng kịch, tạo ra các giờ học “chất lượng” giả tạo, không phản ánh đúng chất lượng thật, không tốt gì cho học sinh và cho cả xã hội.
Người thầy còn chịu áp lực vì bệnh thành tích, hệ quả của cách quản lý
giáo dục kiểu “thi đua khen thưởng”. Cả hệ thống giáo dục phổ thông Việt
Nam hiện nay tựa như một trường đua mà đích đến là đủ thứ danh hiệu gắn
liền với cá nhân với tập thể. Người ta nhắc lên đặt xuống các cán bộ
quản lý, các giáo viên và cả học sinh đều dựa chủ yếu trên các thành
tích thi đua khen thưởng này. Sự hơn thua trong các cuộc đua được đánh
giá thông qua các thành tích điểm số bên ngoài. Vì phải đua, nhà trường
khoán cho giáo viên làm sao đó để cuối kỳ, cuối năm, phải đạt bao nhiêu
học sinh khá, giỏi, xuất sắc nhằm có được những con số đẹp trong các báo
cáo. Ngoài chuyện này, hệ thống còn tổ chức vô số các cuộc đua khác,
một người bạn giáo viên tiểu học viết thư cho tôi kể: “bọn mình dạy tiểu
học đến trường ngày 2 buổi cho đến hết tuần. Tối về lại bao nhiêu việc
không tên khác như làm báo cáo, soạn bài, làm các chuyên đề để lên lớp
và ôn luyện cho các cuộc thi: Thi quản lí giỏi, giáo viên dạy giỏi các
cấp, thi khảo sát chất lượng quản lí và giáo viên, hội thi hát dân ca,
thi đàn piano, thi luật an toàn giao thông….Tháng 1 này (2013) chúng
mình đếm có đến 6 cuộc thi quan trọng. Nghe thầy Hiệu trưởng công bố
chúng mình hồn vía lên mây xanh cả, cảm thấy áp lực vô cùng”.
Người thầy bị giao phó đủ thứ nhưng lại chẳng có quyền hành gì trong công việc. Các đề thi các kỳ kiểm tra trong năm đều do phòng và sở giáo dục ra. Nghĩa là giáo viên cứ dạy theo những gì có sẵn, nhưng ai đó bên trên họ lại là người giữ quyền đánh giá học sinh của họ. Không có quyền gì, nhưng họ lại là người phải chịu trách nhiệm nếu như học sinh mình không đỗ đạt cao. Kiểu tổ chức thi cử đánh giá này thể hiện sự không tin tưởng và tôn trọng người thầy, đặt cả thầy và trò vào thế bị động, buộc họ phải đối phó một cách căng thẳng và tiêu cực. Với cách làm này, chúng ta hoàn toàn dễ hiểu tại sao giáo viên sẵn sàng dạy “văn mẫu” cho học sinh, vì chỉ làm như vậy mới có thể đối phó với các đề thi áp đặt từ trên xuống.
Người Thầy trong xã hội Phần Lan
Tôi xin lấy mô hình giáo dục Phần Lan, một nền giáo dục đang thu hút cả thế giới vì sự thành công kỳ diệu của nó trong những thập niên gần đây, để làm mốc quy chiếu nhằm từ đó biết chúng ta đang ở đâu trên thế giới này.
Cũng như Việt Nam, người Phần Lan xem giáo dục là quốc sách hàng đầu, là chìa khóa của sự tăng trưởng và cạnh tranh quốc tế. Tại xứ Bắc Âu này, người thầy được cả xã hội tin tưởng và quý mến. Do đó, cửa vào ngành sư phạm là rất hẹp, giới trẻ xem nghề giáo là một nghề lý tưởng, ai cũng muốn trở thành “kỹ sư tâm hồn”, nên ngành sư phạm tha hồ chọn người tài. Cô Paula, một giáo viên trong ngôi trường mà chúng tôi đã chọn quan sát ở Phần Lan kể về con đường trở thành giáo viên tiểu học của cô: “khóa thi vào khoa sư phạm của tôi năm đó chỉ có 1/5 ứng sinh trúng vào vòng hai, trong số này, sau nhiều vòng phỏng vấn, người ta chỉ chọn ra một người mà thôi” 2. Và để trở thành giáo viên chính thức của trường này, chị đã phải vượt qua 36 hồ sơ khác cùng nộp đơn dự tuyển. Con đường trở thành giáo viên ở bất kỳ cấp học nào tại xứ này cũng thực sự gian truân nhưng cũng đầy vinh dự.
Người thầy trong xã hội Phần Lan là một chuyên gia giáo dục, ai cũng
phải có bằng thạc sĩ trở lên. Họ là một nhà sư phạm trong việc chuyển
tải tri thức, một người biết làm nghiên cứu về giáo dục, một kỹ sư tâm
hồn đúng nghĩa. Họ là chủ thể tham gia vào hoạch định mục tiêu chương
trình giảng dạy, họ tự do trong việc tổ chức giảng dạy, lựa chọn phương
pháp sư phạm và đánh giá học sinh. Về đời sống vật chất, lương bổng cho
phép họ sống đàng hoàng để toàn tâm toàn ý dấn thân cho nghề nghiệp.
Theo báo cáo của Hội đồng châu Âu, lương trung bình trước thuế của giáo
viên phổ thông Phần Lan trong năm học 2011 - 2012 là 2 598 euro/ tháng3, tương đương với 72.479.364 vnđ, trong khi tôi thấy vật giá giữa Việt Nam và Phần Lan không chênh lệch nhau là mấy.
Giáo viên Phần Lan không hề phải chịu bất kỳ áp lực gì, chẳng ai thanh tra rình rập họ. Hiệu trưởng thỉnh thoảng có thể góp ý, nhưng không có quyền nói với họ là họ phải làm thế này thế khác. Giáo viên chẳng cần phải thi đua với ai, so bì với ai, chẳng có các cuộc thi giáo viên dạy giỏi, chiến sĩ thi đua cấp này cấp kia. Hệ thống giáo dục Phần Lan hoàn toàn vắng bóng hình thức thi đua khen thưởng như ở ta.
Người Phần Lan quan niệm đơn giản về triết lý giáo dục, đó là nhiệm vụ của nhà trường là làm cho trẻ em hạnh phúc, bởi một đứa trẻ hạnh phúc thì cũng là đứa trẻ phát triển toàn diện, có đầy đủ khả năng để lãnh hội bất kỳ thứ gì. Mọi hình thức cạnh tranh, kiểm tra, kiểm soát chỉ gây ra căng thẳng cho cả thầy và trò, khi bị căng thẳng sẽ không thể có môi trường thoải mái thực sự để có thể sáng tạo. Hơn nữa phương cách này chẳng giúp cải thiện chất lượng giảng dạy, nó chỉ tạo ra sự giả dối mà thôi. Một cán bộ quản lý giáo dục cấp địa phương nói với chúng tôi trong đợt chúng tôi khảo sát ngôi trường nằm trong vùng ông quản lý: “Ngày nay chúng tôi không có bất kì loại thanh tra nào cả. Về môn Lịch sử thì tôi nhớ cách đây 20 hay 40 năm gì đó người ta có thanh tra, nhưng giờ thì hoàn toàn không. Tôi nghĩ, thanh tra cũng không mang lại gì. Vì nếu như bạn biết có thanh tra, thì bạn sẽ làm tốt hơn để đối phó, và như vậy là không thật, và cũng không thật đối với học sinh nữa. Là giáo viên thì bạn phải dạy tốt mỗi ngày, không phải để đối phó với thanh tra nhưng mà dạy tốt cho học sinh”.
Có lẽ vì người thầy trong xã hội Việt Nam như vậy mà người trẻ ngày nay quay lưng lại với nghề giáo, trường sư phạm thiếu vắng đầu vào có chất lượng. Phản ánh về thực trạng này, Bà Trần Thị Tâm Đan - nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội trong Hội thảo “Khoa học sư phạm trong chiến lược đào tạo giáo viên - yếu tố căn bản của đổi mới giáo dục Việt Nam” ngày 28-12-2011 đã mô tả: “Giáo viên cũ chuyển ngành, thế hệ trẻ thì quay lưng lại với nghề giáo. Một xã hội mà người thầy không ai muốn làm thì sẽ đi đến đâu?”. Một câu hỏi nhức nhối đáng cho mọi người suy nghĩ, vì nó liên quan đến hiện tại và tương lai của chúng ta và con cháu chúng ta, liên quan đến vận mệnh của cả dân tộc.
----
1 http://tuoitre.vn/Tuyensinh/Tuyen-sinh/492748/ Nhieu- nganh-tiep-tuc-%e2%80%9ce%e2%80%9d.html
2 Kết quả phỏng vấn trong khuôn khổ một đề án nghiên cứu do Viện Nghiên cứu Phát triển Giáo dục (viện IRED) tổ chức.
3 http://eacea.ec.europa.eu/education/eurydice/documents/facts_and_figures/salaries.pdf
Báo Lao Động Online ngày 5 tháng 2 năm 2014
(trích)
Vừa rồi Nghị quyết TƯ 8 khóa XI đã thông qua Đề án Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Giáo sư kỳ vọng gì vào khả năng tìm đúng hướng cho giáo dục ở đề án đó?
- Tôi cho rằng đây là một đề án về giáo dục nghiêm túc nhất trong mấy thập kỷ nay. Tôi rất tán thành nội dung của đề án. Trong đó chúng ta đã xác định được phương hướng mà giáo dục của chúng ta cần phải theo để trở về con đường phát triển chung của nhân loại. Nếu nghiên cứu kỹ đề án có thể thấy hướng đổi mới của ta chính là để thoát ra khỏi tình trạng như lâu nay. Tức là đào tạo con người theo một khuôn mẫu được áp đặt trước, không chú ý gì tới những yêu cầu khách quan và không chú ý gì đến năng lực, những tư chất khác biệt của từng người. Chúng ta có xu hướng muốn giảm khác biệt đến mức tối thiểu. Còn yêu cầu của xã hội hiện đại là khuyến khích những khác biệt ấy. Bởi có như thế mới tìm ra được những cái mới, cái hay, mới có thể sáng tạo và cạnh tranh tốt với thế giới. Thời đại này là cạnh tranh trên cơ sở khác biệt. Mình cứ bắt chước y như người ta, thì mình có giỏi lắm cũng chỉ được như người ta, không bao giờ vượt được. Cái gì cũng cứ khuôn theo một kiểu tư duy như trước đây thì không khuyến khích sáng tạo được. Cho nên một xã hội không đề cao cái trung thực, không khuyến khích tư duy sáng tạo, mọi thứ đều cứ muốn khuôn theo giáo điều có sẵn thì không bao giờ có thể cạnh tranh với người ta được. Tư duy giáo điều cũ kỹ là cái chủ yếu nhất của xã hội ta hiện nay, và nó phản ánh vào giáo dục trong mấy thập kỷ trì trệ lạc hậu không thoát ra được.
Nội dung nào trong đề án đó được giáo sư đặc biệt đánh giá cao?
- Vấn đề cơ bản đầu tiên là triết lý giáo dục đào tạo con người như thế nào? Từ trước đến nay, chúng ta đào tạo con người trở thành một công cụ, một phương tiện để xây dựng xã hội theo khuôn mẫu chúng ta đã định, tức là sẽ dùng con người ấy làm phương tiện tuyên truyền lý tưởng chính trị. Từ nay, ta chuyển sang đào tạo - hoàn thiện con người với tư cách họ là một chủ thể tự do. Con người được hoàn thiện ấy lựa chọn như thế nào, việc ấy không áp đặt trước. Vì sao vậy? Vì xã hội giờ thay đổi liên tục, không chỉ chúng ta mà các nước văn minh nhất họ cũng phải luôn luôn điều chỉnh. Nếu đào tạo con người để làm một phương tiện, một công cụ thì không bao giờ phù hợp với thực tế luôn luôn biến động. Chỉ có cách đào tạo con người có năng lực tự nó, có đủ tự do, có khát khao tự do, đủ điều kiện tự do thì mới thích ứng với những thay đổi liên miên của hoàn cảnh và mới có thể thành công được. Dĩ nhiên trong văn bản đề án người ta diễn đạt theo một cách dễ nghe hơn đối với một số người quá bảo thủ, kiểu như chuyển từ tiếp cận kiến thức sang tiếp cận phát triển năng lực của học sinh... Bản chất của vấn đề chính là phát triển năng lực của người học và quan điểm giáo dục đúng đắn chính là mỗi người có một năng lực, giáo dục nhằm phát huy tối đa tiềm năng của họ chứ không phải đào tạo theo những chuẩn mực mẫu.
Nhưng từ việc xác định được hướng đi đến việc sẽ đi trên con đường mới thế nào thì cần phải có những giải pháp cụ thể?
- Đúng rồi. Nếu chúng ta loay hoay ở chỗ lý luận thì không thể lay chuyển được nền giáo dục mà phải đi vào những cái cụ thể thể hiện triết lý đó. Khó nhất là tìm ra được điểm đầu tiên để ta khởi động… Hãy hình dung hệ thống giáo dục của chúng ta tương tự như một cỗ máy gặp phải một điểm chết, tức là một trạng thái mắc kẹt không xê dịch được. Đẩy tới đẩy lui đẩy qua đẩy lại vẫn không ăn thua! Phải có một lực mạnh kéo nó ra khỏi điểm ì đó thì mới có thể tiến lên, tức là phải có đột phá. Nghĩa là phải tìm ra chỗ nào mà khi ta tác động vào đó thì sẽ bắt đầu lay chuyển cả hệ thống.
Phải chăng có thể đột phá vào vấn đề chất lượng đội ngũ giáo viên như giáo sư từng rất nhiều lần đề đạt?
- Đây là vấn đề bức xúc nhất từ mấy thập kỷ nay nhưng tôi cho rằng chưa có triển vọng nào giải quyết trong vòng 5-7 năm tới. Trong vấn đề này có một yêu cầu hết sức cơ bản là đảm bảo cho nhà giáo điều kiện vật chất tinh thần thỏa đáng thì họ mới làm tốt công việc của mình. Nhưng nhiều thập kỷ rồi giáo viên không có cách nào sống được bằng tiền lương, từ đó nảy ra bao nhiêu tệ nạn. Nếu bây giờ tập trung vào chuyện chống những tệ nạn đó mà không giải quyết được vấn đề đời sống cho các thầy cô thì về mặt đạo lý là không đúng. Mình đẩy người ta đến chỗ phải làm những việc không hay, rồi mình đi trị những việc không hay đó thì không có đạo lý nào cho phép làm như vậy. Nhưng tôi chưa thấy triển vọng gì rõ ràng giải quyết vấn đề này, bởi mắc mớ hiện nay không chỉ là lương nhà giáo mà là lương của mọi công chức. Chính đấy là nguồn gốc tham nhũng của cả xã hội. Nó là cái sai hệ thống, không chữa những cái sai đó thì không chữa được những cái sai khác.
Vậy đột phá bằng cách nào, thưa giáo sư?
- Theo đề án, đó chính là khâu kiểm tra – đánh giá - thi. Trong bối cảnh hiện tại, tôi đồng ý với điều đó. Có những vấn đề quan trọng hơn, có tính quyết định sự sống còn của hệ thống giáo dục, chẳng hạn như về đội ngũ nhà giáo. Nhưng muốn thay đổi được chất lượng đội ngũ thì trước hết cũng phải tác động vào khâu kiểm tra – đánh giá – thi cử. Có xác định cách kiểm tra – đánh giá đúng thì mới có thể có cách học đúng, từ đó tác động tới các trường sư phạm – nơi đào tạo ra giáo viên tương lai, đồng thời là căn cứ để tạo điều kiện cho nhà giáo phấn đấu. Trong kinh tế học và khoa học cơ bản có khái niệm “vận trù học”. Khi vận hành công việc có nhiều khâu, thì phải vận hành từng bước một. Khâu quan trọng nhất không phải là khâu ta thấy nó có ý nghĩa của toàn bộ công việc mà là khâu vào thời điểm căng thẳng nhất ta không giải quyết được. Nhiều khi vấn đề mắc kẹt ở những chỗ rất vớ vẩn nhưng ta vẫn buộc phải phân tích, mổ xẻ để tìm ra chỗ “vớ vẩn” đó.
Người thầy ngày nay nhất là đối với giáo viên phổ thông thực sự là một người “thợ dạy” nghèo về vật chất, vất vả áp lực trong công việc, thiếu tự do và quyền hạn trong chuyên môn, và do đó, cũng chẳng phong phú gì về mặt tinh thần.
Trước hết là chuyện cơm áo gạo tiền. Theo kết quả đề tài khoa học cấp Nhà nước do bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó chủ tịch nước, làm chủ nhiệm cho thấy: “Thu nhập bình quân từ lương và các phụ cấp theo lương trong khoảng từ 3 đến 3,5 triệu đồng/tháng. Tính theo năm công tác thì lương giáo viên sau 13 năm từ 3 đến 3,5 triệu đồng/tháng, sau 25 năm từ 4,1 đến 4,7 triệu đồng/tháng. GV mới ra trường ở cả 3 cấp học nhận mức lương trên dưới 2 triệu đồng/ tháng. Với số lượng GV như hiện nay, theo tính toán của đề tài, chỉ khoảng 50% GV các cấp có thâm niên dạy học từ 13 năm trở lên và được hưởng mức lương bình quân, 50% còn lại được hưởng dưới mức lương bình quân”1.
Lương của giáo viên như thế, trong khi vật giá đắt đỏ, các thầy cô cứ phải sống tằn tiện qua ngày. Nếu hai vợ chồng cùng là giáo viên, nuôi hai đứa con ăn học, thì kể là đói. Có thực mới vực được đạo, bụng mà còn đói thì khó có thể nói chuyện lý tưởng “trồng người”, tiêu cực dạy thêm học thêm, mua bán, trao đổi điểm chác cũng từ đây mà ra, làm nền giáo dục đi xuống, làm hình ảnh người thầy nhếch nhác trong mắt học trò và xã hội.
Cả hệ thống giáo dục phổ thông Việt Nam hiện nay tựa như một trường đua mà đích đến là đủ thứ danh hiệu gắn liền với cá nhân với tập thể. |
Chuyện thiếu thời gian, thu nhập ở trên đã là vấn đề, thì chuyện áp lực trong nghề nghiệp là vấn đề trầm trọng, thường trực đối với người thầy hiện nay. Nhiều giáo viên nói với tôi là họ bị căng thẳng thường trực vì luôn chịu áp lực. Căng thẳng vì phải luôn lo đối phó với các đoàn thanh tra, kiểm tra từ Bộ, từ sở, từ phòng và từ ban giám hiệu trường. Có những đợt thanh tra, dự giờ có báo trước, nhưng cũng có nhiều lúc không báo trước. Để đối phó với các đoàn thanh tra, giáo viên nhiều lúc phải bố trí cho học sinh đóng kịch, tạo ra các giờ học “chất lượng” giả tạo, không phản ánh đúng chất lượng thật, không tốt gì cho học sinh và cho cả xã hội.
Người thầy bị giao phó đủ thứ nhưng lại chẳng có quyền hành gì trong công việc. Các đề thi các kỳ kiểm tra trong năm đều do phòng và sở giáo dục ra. Nghĩa là giáo viên cứ dạy theo những gì có sẵn, nhưng ai đó bên trên họ lại là người giữ quyền đánh giá học sinh của họ. |
Người thầy bị giao phó đủ thứ nhưng lại chẳng có quyền hành gì trong công việc. Các đề thi các kỳ kiểm tra trong năm đều do phòng và sở giáo dục ra. Nghĩa là giáo viên cứ dạy theo những gì có sẵn, nhưng ai đó bên trên họ lại là người giữ quyền đánh giá học sinh của họ. Không có quyền gì, nhưng họ lại là người phải chịu trách nhiệm nếu như học sinh mình không đỗ đạt cao. Kiểu tổ chức thi cử đánh giá này thể hiện sự không tin tưởng và tôn trọng người thầy, đặt cả thầy và trò vào thế bị động, buộc họ phải đối phó một cách căng thẳng và tiêu cực. Với cách làm này, chúng ta hoàn toàn dễ hiểu tại sao giáo viên sẵn sàng dạy “văn mẫu” cho học sinh, vì chỉ làm như vậy mới có thể đối phó với các đề thi áp đặt từ trên xuống.
Người Thầy trong xã hội Phần Lan
Tôi xin lấy mô hình giáo dục Phần Lan, một nền giáo dục đang thu hút cả thế giới vì sự thành công kỳ diệu của nó trong những thập niên gần đây, để làm mốc quy chiếu nhằm từ đó biết chúng ta đang ở đâu trên thế giới này.
Cũng như Việt Nam, người Phần Lan xem giáo dục là quốc sách hàng đầu, là chìa khóa của sự tăng trưởng và cạnh tranh quốc tế. Tại xứ Bắc Âu này, người thầy được cả xã hội tin tưởng và quý mến. Do đó, cửa vào ngành sư phạm là rất hẹp, giới trẻ xem nghề giáo là một nghề lý tưởng, ai cũng muốn trở thành “kỹ sư tâm hồn”, nên ngành sư phạm tha hồ chọn người tài. Cô Paula, một giáo viên trong ngôi trường mà chúng tôi đã chọn quan sát ở Phần Lan kể về con đường trở thành giáo viên tiểu học của cô: “khóa thi vào khoa sư phạm của tôi năm đó chỉ có 1/5 ứng sinh trúng vào vòng hai, trong số này, sau nhiều vòng phỏng vấn, người ta chỉ chọn ra một người mà thôi” 2. Và để trở thành giáo viên chính thức của trường này, chị đã phải vượt qua 36 hồ sơ khác cùng nộp đơn dự tuyển. Con đường trở thành giáo viên ở bất kỳ cấp học nào tại xứ này cũng thực sự gian truân nhưng cũng đầy vinh dự.
Giáo viên Phần Lan không hề phải chịu bất kỳ áp lực gì, chẳng ai thanh tra rình rập họ. Hiệu trưởng thỉnh thoảng có thể góp ý, nhưng không có quyền nói với họ là họ phải làm thế này thế khác. Giáo viên chẳng cần phải thi đua với ai, so bì với ai, chẳng có các cuộc thi giáo viên dạy giỏi, chiến sĩ thi đua cấp này cấp kia. Hệ thống giáo dục Phần Lan hoàn toàn vắng bóng hình thức thi đua khen thưởng như ở ta. |
Giáo viên Phần Lan không hề phải chịu bất kỳ áp lực gì, chẳng ai thanh tra rình rập họ. Hiệu trưởng thỉnh thoảng có thể góp ý, nhưng không có quyền nói với họ là họ phải làm thế này thế khác. Giáo viên chẳng cần phải thi đua với ai, so bì với ai, chẳng có các cuộc thi giáo viên dạy giỏi, chiến sĩ thi đua cấp này cấp kia. Hệ thống giáo dục Phần Lan hoàn toàn vắng bóng hình thức thi đua khen thưởng như ở ta.
Người Phần Lan quan niệm đơn giản về triết lý giáo dục, đó là nhiệm vụ của nhà trường là làm cho trẻ em hạnh phúc, bởi một đứa trẻ hạnh phúc thì cũng là đứa trẻ phát triển toàn diện, có đầy đủ khả năng để lãnh hội bất kỳ thứ gì. Mọi hình thức cạnh tranh, kiểm tra, kiểm soát chỉ gây ra căng thẳng cho cả thầy và trò, khi bị căng thẳng sẽ không thể có môi trường thoải mái thực sự để có thể sáng tạo. Hơn nữa phương cách này chẳng giúp cải thiện chất lượng giảng dạy, nó chỉ tạo ra sự giả dối mà thôi. Một cán bộ quản lý giáo dục cấp địa phương nói với chúng tôi trong đợt chúng tôi khảo sát ngôi trường nằm trong vùng ông quản lý: “Ngày nay chúng tôi không có bất kì loại thanh tra nào cả. Về môn Lịch sử thì tôi nhớ cách đây 20 hay 40 năm gì đó người ta có thanh tra, nhưng giờ thì hoàn toàn không. Tôi nghĩ, thanh tra cũng không mang lại gì. Vì nếu như bạn biết có thanh tra, thì bạn sẽ làm tốt hơn để đối phó, và như vậy là không thật, và cũng không thật đối với học sinh nữa. Là giáo viên thì bạn phải dạy tốt mỗi ngày, không phải để đối phó với thanh tra nhưng mà dạy tốt cho học sinh”.
Có lẽ vì người thầy trong xã hội Việt Nam như vậy mà người trẻ ngày nay quay lưng lại với nghề giáo, trường sư phạm thiếu vắng đầu vào có chất lượng. Phản ánh về thực trạng này, Bà Trần Thị Tâm Đan - nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội trong Hội thảo “Khoa học sư phạm trong chiến lược đào tạo giáo viên - yếu tố căn bản của đổi mới giáo dục Việt Nam” ngày 28-12-2011 đã mô tả: “Giáo viên cũ chuyển ngành, thế hệ trẻ thì quay lưng lại với nghề giáo. Một xã hội mà người thầy không ai muốn làm thì sẽ đi đến đâu?”. Một câu hỏi nhức nhối đáng cho mọi người suy nghĩ, vì nó liên quan đến hiện tại và tương lai của chúng ta và con cháu chúng ta, liên quan đến vận mệnh của cả dân tộc.
----
1 http://tuoitre.vn/Tuyensinh/Tuyen-sinh/492748/ Nhieu- nganh-tiep-tuc-%e2%80%9ce%e2%80%9d.html
2 Kết quả phỏng vấn trong khuôn khổ một đề án nghiên cứu do Viện Nghiên cứu Phát triển Giáo dục (viện IRED) tổ chức.
3 http://eacea.ec.europa.eu/education/eurydice/documents/facts_and_figures/salaries.pdf
Khai phá và hoàn thiện con người tự do
Giáo sư Hoàng Tụy trả lời phỏng vấn, Thư Hiên ghiBáo Lao Động Online ngày 5 tháng 2 năm 2014
(trích)
Kỳ vọng
Vừa rồi Nghị quyết TƯ 8 khóa XI đã thông qua Đề án Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Giáo sư kỳ vọng gì vào khả năng tìm đúng hướng cho giáo dục ở đề án đó?
- Tôi cho rằng đây là một đề án về giáo dục nghiêm túc nhất trong mấy thập kỷ nay. Tôi rất tán thành nội dung của đề án. Trong đó chúng ta đã xác định được phương hướng mà giáo dục của chúng ta cần phải theo để trở về con đường phát triển chung của nhân loại. Nếu nghiên cứu kỹ đề án có thể thấy hướng đổi mới của ta chính là để thoát ra khỏi tình trạng như lâu nay. Tức là đào tạo con người theo một khuôn mẫu được áp đặt trước, không chú ý gì tới những yêu cầu khách quan và không chú ý gì đến năng lực, những tư chất khác biệt của từng người. Chúng ta có xu hướng muốn giảm khác biệt đến mức tối thiểu. Còn yêu cầu của xã hội hiện đại là khuyến khích những khác biệt ấy. Bởi có như thế mới tìm ra được những cái mới, cái hay, mới có thể sáng tạo và cạnh tranh tốt với thế giới. Thời đại này là cạnh tranh trên cơ sở khác biệt. Mình cứ bắt chước y như người ta, thì mình có giỏi lắm cũng chỉ được như người ta, không bao giờ vượt được. Cái gì cũng cứ khuôn theo một kiểu tư duy như trước đây thì không khuyến khích sáng tạo được. Cho nên một xã hội không đề cao cái trung thực, không khuyến khích tư duy sáng tạo, mọi thứ đều cứ muốn khuôn theo giáo điều có sẵn thì không bao giờ có thể cạnh tranh với người ta được. Tư duy giáo điều cũ kỹ là cái chủ yếu nhất của xã hội ta hiện nay, và nó phản ánh vào giáo dục trong mấy thập kỷ trì trệ lạc hậu không thoát ra được.
Nội dung nào trong đề án đó được giáo sư đặc biệt đánh giá cao?
- Vấn đề cơ bản đầu tiên là triết lý giáo dục đào tạo con người như thế nào? Từ trước đến nay, chúng ta đào tạo con người trở thành một công cụ, một phương tiện để xây dựng xã hội theo khuôn mẫu chúng ta đã định, tức là sẽ dùng con người ấy làm phương tiện tuyên truyền lý tưởng chính trị. Từ nay, ta chuyển sang đào tạo - hoàn thiện con người với tư cách họ là một chủ thể tự do. Con người được hoàn thiện ấy lựa chọn như thế nào, việc ấy không áp đặt trước. Vì sao vậy? Vì xã hội giờ thay đổi liên tục, không chỉ chúng ta mà các nước văn minh nhất họ cũng phải luôn luôn điều chỉnh. Nếu đào tạo con người để làm một phương tiện, một công cụ thì không bao giờ phù hợp với thực tế luôn luôn biến động. Chỉ có cách đào tạo con người có năng lực tự nó, có đủ tự do, có khát khao tự do, đủ điều kiện tự do thì mới thích ứng với những thay đổi liên miên của hoàn cảnh và mới có thể thành công được. Dĩ nhiên trong văn bản đề án người ta diễn đạt theo một cách dễ nghe hơn đối với một số người quá bảo thủ, kiểu như chuyển từ tiếp cận kiến thức sang tiếp cận phát triển năng lực của học sinh... Bản chất của vấn đề chính là phát triển năng lực của người học và quan điểm giáo dục đúng đắn chính là mỗi người có một năng lực, giáo dục nhằm phát huy tối đa tiềm năng của họ chứ không phải đào tạo theo những chuẩn mực mẫu.
Nhưng từ việc xác định được hướng đi đến việc sẽ đi trên con đường mới thế nào thì cần phải có những giải pháp cụ thể?
- Đúng rồi. Nếu chúng ta loay hoay ở chỗ lý luận thì không thể lay chuyển được nền giáo dục mà phải đi vào những cái cụ thể thể hiện triết lý đó. Khó nhất là tìm ra được điểm đầu tiên để ta khởi động… Hãy hình dung hệ thống giáo dục của chúng ta tương tự như một cỗ máy gặp phải một điểm chết, tức là một trạng thái mắc kẹt không xê dịch được. Đẩy tới đẩy lui đẩy qua đẩy lại vẫn không ăn thua! Phải có một lực mạnh kéo nó ra khỏi điểm ì đó thì mới có thể tiến lên, tức là phải có đột phá. Nghĩa là phải tìm ra chỗ nào mà khi ta tác động vào đó thì sẽ bắt đầu lay chuyển cả hệ thống.
Phải chăng có thể đột phá vào vấn đề chất lượng đội ngũ giáo viên như giáo sư từng rất nhiều lần đề đạt?
- Đây là vấn đề bức xúc nhất từ mấy thập kỷ nay nhưng tôi cho rằng chưa có triển vọng nào giải quyết trong vòng 5-7 năm tới. Trong vấn đề này có một yêu cầu hết sức cơ bản là đảm bảo cho nhà giáo điều kiện vật chất tinh thần thỏa đáng thì họ mới làm tốt công việc của mình. Nhưng nhiều thập kỷ rồi giáo viên không có cách nào sống được bằng tiền lương, từ đó nảy ra bao nhiêu tệ nạn. Nếu bây giờ tập trung vào chuyện chống những tệ nạn đó mà không giải quyết được vấn đề đời sống cho các thầy cô thì về mặt đạo lý là không đúng. Mình đẩy người ta đến chỗ phải làm những việc không hay, rồi mình đi trị những việc không hay đó thì không có đạo lý nào cho phép làm như vậy. Nhưng tôi chưa thấy triển vọng gì rõ ràng giải quyết vấn đề này, bởi mắc mớ hiện nay không chỉ là lương nhà giáo mà là lương của mọi công chức. Chính đấy là nguồn gốc tham nhũng của cả xã hội. Nó là cái sai hệ thống, không chữa những cái sai đó thì không chữa được những cái sai khác.
Vậy đột phá bằng cách nào, thưa giáo sư?
- Theo đề án, đó chính là khâu kiểm tra – đánh giá - thi. Trong bối cảnh hiện tại, tôi đồng ý với điều đó. Có những vấn đề quan trọng hơn, có tính quyết định sự sống còn của hệ thống giáo dục, chẳng hạn như về đội ngũ nhà giáo. Nhưng muốn thay đổi được chất lượng đội ngũ thì trước hết cũng phải tác động vào khâu kiểm tra – đánh giá – thi cử. Có xác định cách kiểm tra – đánh giá đúng thì mới có thể có cách học đúng, từ đó tác động tới các trường sư phạm – nơi đào tạo ra giáo viên tương lai, đồng thời là căn cứ để tạo điều kiện cho nhà giáo phấn đấu. Trong kinh tế học và khoa học cơ bản có khái niệm “vận trù học”. Khi vận hành công việc có nhiều khâu, thì phải vận hành từng bước một. Khâu quan trọng nhất không phải là khâu ta thấy nó có ý nghĩa của toàn bộ công việc mà là khâu vào thời điểm căng thẳng nhất ta không giải quyết được. Nhiều khi vấn đề mắc kẹt ở những chỗ rất vớ vẩn nhưng ta vẫn buộc phải phân tích, mổ xẻ để tìm ra chỗ “vớ vẩn” đó.
DAYVAHOC. Báo Người Lao Động
đưa tin: "Nhân giỗ đầu cố PGS-TS Lưu Trọng Hiếu, nguyên giảng viên
Trường ĐH Nông Lâm TPHCM gia đình đã trao tặng 145 triệu đồng cho sinh
viên nghèo hiếu học của Trường Đại học Nông Lâm TPHCM. Lúc sinh thời,
PGS-TS Lưu Trọng Hiếu đã mong muốn thành lập quỹ học bổng để hỗ trợ cho
sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, có ý chí phấn đấu học giỏi. Thể theo di
nguyện, gia đình đã dành toàn bộ số tiền phúng điếu để đưa vào quỹ học
bổng “Đồng hành cùng ĐH Nông Lâm TPHCM”. Cố PGS-TS Lưu Trọng Hiếu đã
từng được Chính phủ Pháp trao tặng Huân chương Nông nghiệp Bội tinh.
Thầy Hiếu mất ngày 15.5 2008 dương lịch. Thầy lưu dấu những ký ức
"Trường tôi" trong bài viết thương yêu gửi lại.
TRƯỜNG TÔI
PGS.TS. Lưu Trọng Hiếu
Bài viết nhân kỷ niệm 50 thành lập Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh
Năm mươi năm thành lập Trường Đại Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh; Một trăm năm thành lập ngành đào tạo Thú Y tại Việt Nam
Thường thì khi cưới nhau được hai mươi lăm năm người ta tổ chức đám cưới bạc và cưới nhau được năm mươi năm người ta tổ chức đám cưới vàng. Năm nay, trường chúng ta tổ chức lễ Kim Khánh để mừng Trường vừa tròn năm mươi tuổi và cũng là dịp để chúng ta ôn lại một trăm năm thành lập ngành đào tạo thú y Việt Nam.
Năm 1974 để chuẩn bị phúc trình tốt nghiệp kỹ sư, anh Nguyễn Văn Kiểm có đề nghị tôi hướng dẫn anh tìm hiểu về việc đào tạo chuyên viên cao cấp ngành Thú Y và Chăn Nuôi tại Việt Nam. Tôi nhận lời vì biết anh rất gắn bó với ngành giáo dục nông nghiệp từ khi anh đến trường vào những năm đầu tiên khi trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Blao vừa được thành lập tại tỉnh Đồng Nai Thượng. Anh đã dành nhiều thời gian và công sức đến thư viện Quốc gia và thư viện Bộ Canh Nông tham khảo tài liệu, xin ý kiến của nhiều vị giáo sư, nhiều vị lão thành trong ngành nông nghiệp. Anh đã sưu tập, sao chép lại toàn bộ các nghị định, các sắc lệnh thành lập trường, thành lập ngành giáo dục Thú Y qua các thời kỳ Toàn quyền Beau, Toàn quyền Sarraut, Toàn quyền Merlin, Toàn quyền Decoux và sau năm 1954 anh đã sưu tập lại toàn bộ các nghị định, các sắc lệnh có liên quan đến việc thành lập Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Blao, quy chế tuyển sinh, chương trình đào tạo, quy chế giáo sư cho đến năm 1974 là năm anh viết bảng phúc trình tốt nghiệp. Bảng phúc trình này hiện đang được lưu trữ và có thể tham khảo tại thư viện Đại Học Nông Lâm Thủ Đức Thành Phố Hồ Chí Minh.
(PGS.TS Lưu Trọng Hiếu, người thứ hai bên phải, cùng nguyên Hiệu trưởng Bùi Cách Tuyến trong chuyến công tác ở Hà Nội)
Hơn ba mươi năm qua từ đó cho đến nay một hệ thống giáo dục nông nghiệp được thành lập từ Bắc chí Nam, nhiều trường đại học, trung học nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, thuỷ lợi đã ra đời. Tôi thiết nghĩ nên có những công trình nghiên cứu, sưu tập lại các văn bản, các nghị định thành lập các trường, các văn bản hướng dẫn tuyển sinh, các chương trình đào tạo, nghiên cứu trong hệ thống giáo dục nông nghiệp như công trình của kỹ sư Nguyễn Văn Kiểm đã thực hiện trước đây.
Theo báo cáo và các tài liệu mà anh Nguyễn Văn Kiểm sưu tập được thì từ những thập niên cuối của thế kỷ XIX người Pháp đã thiết lập một hệ thống bảo vệ gia súc tại Việt Nam theo bộ luật ngày 22 tháng 7 năm 1881, đặc biệt là các điều 38 và 39 trong bộ luật này có liên quan đến chức năng của Sở Thú Y.
Vào năm 1904, người Pháp đã bắt đầu mở ngành đào tạo thú y sĩ tại Việt Nam để phục vụ cho công tác phòng chống dịch bệnh gia súc, thanh tra thú sản. Nhiệm vụ đào tạo bác sĩ thú y sĩ lúc đầu được giao cho Trường Y Khoa Hà Nội theo nghị định ngày 25 tháng 10 năm 1904 của Toàn quyền Beau về việc tổ chức lại trường này. Đến năm 1910 Ban Thú Y của Trường Y khoa và bệnh xá thú y được cải biến thành Trường Thú Y Bắc Kỳ tách ra khỏi Trường Y Khoa và được đặt dưới sự chỉ đạo của Thống sứ Bắc Kỳ theo nghị định ngày 11 tháng 8 năm 1910 của Toàn quyền Klobukowshi.
Đến năm 1917 Trường Thú Y Bắc Kỳ được cải biến thành Trường Thú Y Đông Dương theo nghị định ngày 15 tháng 9 năm 1917 của Toàn quyền Sarraut.
Đến năm 1922 ngoài bệnh xá thú y, Trường Thú Y còn có Phòng thí nghiệm nghiên cứu thú y theo như nghị định ngày 18 tháng 11 năm 1922.
Nghị định ngày 24 tháng 3 năm 1925 của Toàn quyền Merlin ấn định quy chế hoạt động và học tập của sinh viên Trường Thú Y Đông Dương. Chương trình học tập của sinh viên là 4 năm sau khi tốt nghiệp Tú Tài và sinh viên phải trải qua một kỳ thực tập tại Viện Pasteur Nha Trang trong 3 tháng. Nghị định này cũng nói rõ hoạt động của Phòng thí nghiệm Vi sinh bao gồm cả Vi sinh, ký sinh, khám tử, bệnh xá thú y và dược phòng thú y của Trường.
Tháng 10 năm 1935 Trường Thú Y Đông Dương đóng cửa do khủng hoảng kinh tế và bệnh xá thú y của trường vẫn duy trì hoạt động.
Đến năm 1941 Trường Thú Y hoạt động trở lại theo nghị định ngày 28 tháng 4 năm 1941 của Toàn quyền Decoux.
Ngày 17 tháng 10 năm 1941 bệnh xá thú y Hà Nội lại được sát nhập vào Trường Thú Y Đông Dương. Chương trình học được rút ngắn xuống còn 3 năm rưỡi trong đó năm đầu sinh viên học tại Viện Đại Học Hà Nội cùng với sinh viên Trường Đại học Nông Lâm, ba học kỳ kế tiếp học tại Trường Thú Y và năm cuối cùng học tại Viện Pasteur Nha Trang.
Sang năm 1942 Trường lại cải tổ theo nghị định ngày 3 tháng 8 năm 1942 của Toàn quyền Decoux và chương trình vẫn giữ nguyên là 3 năm rưỡi được phân bố như sau: Năm đầu học tại Viện Đại học Hà Nội cùng với sinh viên Nông Lâm. Năm thứ hai và năm thứ ba học tại Trường Thú Y và học kỳ cuối học tại Viện Pasteur Nha Trang.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945 Trường lại đóng cửa do Nhật đảo chính.
Vào tháng 6 năm 1945 Trường mở cửa trở lại và có tuyển thêm khoá mới, nhưng khoá này chỉ học một năm rồi giải tán.
Đến cách mạng mùa thu, ngày 19 tháng 8 năm 1945 trường lại đóng cửa.
Vào khoảng tháng 2 năm 1946 trường mở cửa trở lại.
Ngày 19 tháng 12 năm 1946 trường lại đóng cửa và sau đó trường được di chuyển vào Thanh Hoá để hoàn tất đào tạo khoá 1944 và sinh viên tốt nghiệp vào năm 1948.
Trường Thú Y Hà Nội, sau này là Trường Thú Y Đông Dương đã tồn tại trong tiền bán thế kỷ XX và những thú y sĩ do trường đào tạo đã phát huy tác dụng bảo vệ đàn gia súc, bảo vệ sức khoẻ cộng đồng trong suốt thế kỷ qua. Những người con ưu tú của trường như bác sĩ Phạm Văn Huyến, nhạc phụ của hai giáo sư Trịnh Văn Thịnh và giáo sư Ngô Bá Thành, phó giáo sư Điền Văn Hưng, phó giáo sư Trần Nhơn, phó giáo sư Nguyễn Vĩnh Phước, bác sĩ Vũ Thiện Thái, bác sĩ Nguyễn Lương, bác sĩ Nguyễn Bá Lương, bác sĩ Nguyễn Hữu Nghiệp, bác sĩ Lê Thước, bác sĩ Nguyễn Trọng Trử, bác sĩ Vũ Đình Chính, bác sĩ Tôn Thất Ngữ, bác sĩ Nguyễn Ngọc Minh, bác sĩ Lê Văn Tứ,, bác sĩ Nguyễn Văn Tư, bác sĩ Lê Hội Phú đã để dấu ấn của mình trong suốt 50 năm qua, đã từng là những nhà giáo ưu tú, là những con chim đầu đàn trong lĩnh vực chăn nuôi thú y, những nhà vi trùng học, nhà bệnh lý học gia súc, nhà ký sinh trùng học, nhà di truyền học, nhà dinh dưỡng học, nhà quản lý chăn nuôi lỗi lạc trong cả nước, là thầy của nhiều người thầy, đã đào tạo nhiều thế hệ sinh viên, đã đóng góp nhiều công trình nghiên cứu chăn nuôi thú y có giá trị phục vụ cho sản xuất và bảo vệ gia súc.
Sau hiệp định Genève năm 1954 Học viện Nông Lâm được thành lập tại miền Bắc và Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Blao, tiền thân của Đại học Nông Lâm được thành lập tại miền Nam.
Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Blao được thành lập theo nghị định 112 BCN/NĐ ngày 19 tháng 11 năm 1955. Trường đào tạo ba ngành Nông Lâm Súc. Trường gồm một cấp Cao đẳng đào tạo các kỹ sư dành cho các sinh viên đã học hết chương trình trung học thời gian học lúc đầu là 3 năm, sau này là 4 năm và cấp Trung đẳng đào tạo các kiểm sự dành cho các học sinh đã đậu bằng Trung học đệ nhất cấp, Trung học phổ thông hoặc học lực tương đương. Thời gian học là 3 năm. Ngoài ra còn có những khoá học theo mùa, theo các chuyên đề tuỳ theo nhu cầu( đào tạo các kỹ thuật viên cải cách điền địa, hợp tác xã, trồng hoa, chăn nuôi…).
Giáo sư đoàn của trường được tuyển lựa từ các chuyên viên cao cấp canh nông, thuỷ lâm, mục súc, được hưởng những quyền lợi cùng các khoản cung cấp cho các giáo sư đại học.
Trường trực thuộc Nha Học vụ Kỹ thuật và Thực hành Canh nông, Bộ Canh Nông. Khóa đầu tiên cấp Trung đẳng được khai giảng vào ngày 12 tháng 12 năm 1955 và khoá đầu tiên cấp Cao đẳng được khai giảng vào ngày thứ hai tuần lễ đầu tiên tháng 11 năm 1959 và đã bế giảng vào ngày thứ bảy tuần lễ đầu tiên tháng 11 năm 1962.
Nghị định 1361/BCTNT/NĐ/HC-2 ngày 26-3-1962 của Bộ Cải Tiến Nông Thôn đã chuyển giao nhiệm vụ và cơ sở Học vụ Kỹ thuật Canh nông và các trường trực thuộc về Bộ Quốc Gia Giáo Dục
Theo nghị định 1184/GD/TC ngày 24-8-1963 cấp Cao đẳng Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục tại Sài Gòn được cải biến thành Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn và do một giám đốc điều khiển, trực thuộc Nha Học vụ Nông Lâm Súc. Cũng theo nghị định này, kể từ niên học 1963-1964 thời hạn học tại Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc được ấn định là 4 năm.
Cấp Trung đẳng Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Bảo Lộc được cải biến thành Trường Trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc.
Theo nghị định 483/GD ngày 23-3-1967 Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc trực thuộc Bộ Giáo Dục. Theo sắc lệnh 158/SL/VHGD/TN ngày 9-11-1968 Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn được cải biến thành Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp trực thuộc Bộ Văn Hoá Giáo Dục và Thanh Niên.
Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp do một giám đốc điều khiển, có một phó giám đốc phụ tá. Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp gồm có ba trường: Cao đẳng Nông Nghiệp, Cao đẳng Thú Y và Chăn Nuôi, và Cao đẳng Thuỷ Lâm. Mỗi trường do một giám đốc điều khiển.
Theo sắc lệnh 174/SL/GD ngày 29-11-1972 Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp được cải biến thành Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp. Học viện có nhiệm vụ huấn luyện, đào tạo và tu nghiệp cho các chuyên viên và cán bộ nông nghiệp cấp kỷ sư và các cấp cao hơn, sưu tầm, nghiên cứu, phát minh, phổ biến các kiến thức, kỹ thuật sản xuất và góp phần thiết lập các dự án nhằm phát triển các lãnh vực nông nghiệp.
Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp gồm các trường Cao đẳng Nông nghiệp, Thuỷ Lâm, Thú y và Chăn nuôi, các phòng thí nghiệm và cơ sở khảo cứu cần thiết để học viện có thể hoàn thành nhiệm vụ.
Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp đặt dưới quyền đều khiển của một viện trưởng, có một phó viện trưởng và một tổng thư ký phụ giúp về học vụ và quản trị. Bên cạnh viện trưởng có hội đồng tư vấn và hội đồng viện.
Theo sắc lệnh 010-SL-VH-GDTN ngày 11-1- 19 Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp, Học Viện Quốc Gia Kỹ Thuật và Ban Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ Thuật được sát nhập vào Viện Đại học Bách Khoa Thủ Đức.
Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp được biến cải thành trường Đại học Nông Nghiệp gồm 5 ngành: Nông khoa, Lâm khoa, Súc khoa, Ngư nghiệp và Kỹ thuật nông nghiệp.
Ban Cao đẳng Sư phạm Kỹ thuật trực thuộc Trường Đại học Giáo Dục.
Sau ngày đất nước thống nhất, Tổng Cục Nông Nghiệp đã chỉ thị tổ chức lại Trường Đại học Nông Nghiệp-Viện Đại học Bách Khoa Thủ Đức. Ngày 8-12-1976, Bộ Nông Nghiệp đã ra quyết định đặt tên trường là Đại Học Nông Nghiệp IV với 4 nhiệm vụ:
• Đào tạo kỹ sư nông nghiệp về Trồng trọt, Chăn nuôi Thú y, Thuỷ sản, Cơ khí nông nghiệp nhằm phục vụ cho phát triển nông nghiệp.
• Đào tạo kỹ sư lâm nghiệp cho đến khi Bộ Lâm Nghiệp chưa mở Trường Lâm Nghiệp riêng cho các tỉnh phía Nam.
• Bồi dưỡng kiến thức, kinh nghiệm tiên tiến về kỹ thuật sản xuất nông nghiệp, về quản lý kinh tế cho các cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế cho các cấp và cơ sở.
• Thành nghiên cứu khoa học, vừa phục vụ cho nâng cao chất lượng đào tạo, vừa góp phần giải quyết những vấn đề thực tiễn của sản xuất nông nghiệp cho các tỉnh phía Nam đặt ra, làm tròn nhiệm vụ trung tâm văn hoá, khoa học, kỹ thuật của nhà trường xã hội chủ nghĩa.
Thời gian đào tạo mỗi khoá là 4 năm và thời gian bồi dưỡng mỗi khoá là từ 3 đến 9 tháng.
Năm 1985 Trường Cao Đẳng Lâm Nghiệp Trảng Bom được sát nhập vào Trường Đại học Nông Nghiệp IV và trường được cải biến thành Trường Đại học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh.
Năm 1995 Trường Đại học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh được sáp nhập vào Đại học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh.
Từ năm 2000 cho đến nay, Trường Đại học Nông Lâm được tách khỏi Đại học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh và trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo. Ngay từ khi mới thành lập trường đã được giao nhiệm vụ :
• Giáo dục và đào tạo chuyên viên cao cấp nông nghiệp để cung ứng nguồn nhân lực chuyên môn cho hai lĩnh vực công và tư.
• Khảo cứu cơ bản và ứng dụng, cập nhật hoá và canh tân kỹ thuật nông nghiệp.
• Phổ biến các kiến thức mới và kỹ thuật tiên tiến về nông nghiệp để giúp nông dân tăng gia sản xuất.
• Ngoài việc huấn luyện về kỹ thuật sinh viên còn được trau dồi phương pháp lãnh đạo, quản trị xí nghiệp, tìm hiểu tâm lý người nông dân, giao tế với quần chúng trong công tác khuyến nông, phổ biến kỹ thuật nông nghiệp.
Trong các khoá đầu từ năm 1959 (khoá I) đến năm 1963 (khoá IV) mỗi năm trường tuyển 60 sinh viên gồm 25 sinh viên ngành Nông khoa, 15 sinh viên ngành Lâm khoa, và 20 sinh viên ngành Súc khoa.
Từ năm 1964 (khoá V) mỗi năm trường tuyển 100 sinh viên và bắt đầu từ năm 1970 (khoá XI) mỗi năm trường tuyển 200 sinh viên gồm 110 sinh viên ngành Nông Khoa, 40 sinh viên ngành Lâm khoa, 50 ngành Súc Khoa. Trong số 200 sinh viên được tuyển, trường tuyển chọn riêng 20 sinh viên có bằng Tú Tài Nông Lâm Súc, xét tuyển miễn thi 5 kiểm sự Nông chính, Thuỷ lâm, Thú Y và 20 sinh viên dân tộc ít người đỗ Tú Tài từ hạng Bình thứ trở lên. Số 155 sinh viên còn lại sẽ được tuyển trong tổng số hơn 3600 ứng viên dự thi, bình quân tỉ lệ tuyển chọn 1/12.
Muốn vào trường, sinh viên phải trên 18 tuổi và dưới 30 tuổi tính đến năm tuyển sinh. Hạng tuổi có thể gia tăng thêm tối đa là 5 đối với các công nhân viên hoặc quân nhân. Có văn bằng Tú Tài toàn phần Toán học hoặc Khoa học thực nghiệm, hoặc tốt nghiệp cấp Trung đẳng Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Blao hay những cấp bằng tương đương phổ thông hay Nông Lâm Muc ngoại quốc. Trúng tuyển kỳ thi tuyển sinh. Đối với công nhân viên chức và quân nhân có đủ điều kiện nói trên phải được phép của cơ quan quản lý mới được dự thi.
Trong những khoá đầu kỳ thi tuyển bao gồm 6 bài thi viết:
• Luận Việt Văn thi trong 2 giờ, hệ số 2.
• Toán thi trong 2 giờ , hệ số 3.
• Lý Hoá thi trong 2 giờ hệ số 3.
• Vạn vật (địa chất, thực vật, động vật) thi trong 2 giờ hệ số 3.
• Pháp văn (một bài luận ) thi trong 2 giờ, hệ số 2
• Anh văn (một bài dịch) thi trong 1 giờ
Những bài thi Toán, Lý, Hoá, Vạn Vật, và dịch Anh văn có thể đáp bằng tiếng Việt hay tiếng Pháp nhưng phải dùng một sinh ngữ cho tất cả 4 bài thi này.
Các bài thi được cho điểm từ 0 đến 20. Thí sinh nào có điểm 0 về các môn thi hay điểm dưới 4/20 về bài thi Pháp văn hay 2 điểm bằng hay dưới 4/20 về ba môn Toán, Lý Hoá , Vạn Vật sẽ đương nhiên bị loại.
Từ năm 1965 các môn thi tuyển sinh còn lại 5 môn: Toán, Lý Hoá, Vạn Vật, Pháp ngữ và Anh ngữ.
Từ năm 1968 trường xét cho nhập miễn thi vào năm thứ nhất tối đa là năm kiểm sự Nông chính, Thuỷ lâm và Thú Y có điểm trung bình từ hạng Bình thứ trở lên ( 12/20) và đã làm việc ít nhất năm năm trong phạm vi chuyên môn và được hội đồng giáo sư trường đề nghị. Cũng từ năm 1968 các môn thi tuyển còn lại 3 môn:
• Toán thi trong 45 phút
• Lý Hoá thi trong 45 phút
• Vạn vật thi trong 45 phút.
Cả 3 môn thi được tổ chức thi trong 1 buổi chiều. Bài thi được chấm điểm trên 100. Các thí sinh có điểm thi 0 sẽ đương nhiên bị loại. Các môn Toán, Lý Hoá thi theo chương trình lớp 12, ban B (ban Toán). Vạn vật thi theo chương trình lớp 11 và 12 ban A (Khoa học thực nghiệm).
Chương trình học bốn khoá đầu là 3 năm, từ khoá năm chương trình học là bốn năm, bình quân sinh viên học từ 2000 đến 2300 giờ lý thuyết và 1800 giờ thực hành. Chuyển ngữ được sử dụng là tiếng Pháp cho bốn khoá đầu, và từ khoá V tiếng Việt được sử dụng để giảng dạy. Năm học được chia làm 2 học kỳ, mỗi học kỳ kéo dài 16 tuần.
Vào cuối mỗi năm học, năm thứ nhất và năm thứ hai sinh viên phải trải qua một kỳ tập sự tổng quát nhằm giúp sinh viên hiểu được thực tế sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, thú y, lâm nghiệp. Cuối năm thứ ba và năm thứ tư sinh viên phải trải qua một kỳ tập sự chuyên môn, tiến hành nghiên cứu một đề tài tốt nghiệp được một giáo sư hay một chuyên viên của Viện khảo cứu hoặc của Bộ Nông nghiệp hướng dẫn.
Đề tài thực tập tốt nghiệp phải là một vấn đề khoa học, kỹ thuật hay kinh tế. Bảng phúc trình trước đây gọi là luận trình được bảo vệ trước một hội đồng giám khảo gồm các giáo sư, giảng sư của trường hoặc chuyên viên của Bộ Canh Nông chuyên sâu về chuyên ngành mà sinh viên báo cáo.
Kể từ năm 1965, sinh viên ngành Nông khoa sau khi học 2 năm đầu có thể chọn các chuyên khoa: Nông học, Kinh tế nông nghiệp, Công thôn, Chế biến nông sản, Ngư nghiệp, còn sinh viên ngành Súc khoa có thể chọn chuyên khoa Chăn nuôi Thú y, Kinh tế nông nghiệp, Chế biến thực phẩm, Ngư nghiệp. Sinh viên Lâm khoa chỉ có thể chọn một chuyên khoa là Lâm nghiệp.
Kể từ năm 1971 Trường mở thêm chuyên ngành Giáo dục nông nghiệp.
Đến năm 1974 khi trường được sát nhập vào Viện đại học Bách khoa Thủ Đức, sinh viên lúc thi vào trường phải chọn một trong 5 chuyên ngành: Nông khoa, Lâm khoa, Súc khoa, Ngư nghiệp, Kỹ thuật nông nghiệp ngay từ đầu.
Khi mới thành lập trường chỉ mở ba ngành đào tạo: Nông khoa, Lâm khoa, Súc khoa. Đến năm 1974 trường có thêm hai ngành đào tạo là Ngư nghiệp và Kỹ thuật nông nghiệp. Hàng năm quy mô tuyển sinh là 200 sinh viên.
Đến nay (năm 2005) trường đã phát triển thành một Đại học đa ngành đào tạo 36 chuyên ngành, với quy mô tuyển sinh 2700 sinh viên đại học mỗi năm. Đại học Nông Lâm hiện có 12 Khoa: Nông học, Chăn nuôi Thú y, Lâm nghiệp, Kinh tế, Cơ khí Công nghệ, Thuỷ sản, Công nghệ thực phẩm, Khoa học, Quản lý đất đai và bất động sản, Ngoại ngữ, Công nghệ thông tin và bốn bộ môn trực thuộc trường: Mác Lênin, Công nghệ sinh học, Sư phạm kỹ thuật nông nghiệp, Cảnh quan và kỹ thuật hoa viên. Ngoài các Khoa, Trường còn có các Trung Tâm: Nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ, Ngoại ngữ, Tin học, Phân tích thí nghiệm, Đào tạo nghiên cứu tư vấn kinh tế xã hội, Công nghệ và thiết bị nhiệt lạnh, Năng lượng và máy nông nghiệp, Công nghệ quản lý môi trường và tài nguyên, Công nghệ sinh học, Nghiên cứu bảo quản và chế biến rau quả, Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật địa chính, Nghiên cứu công nghệ chế biến gỗ, giấy và bột giấy, Nghiên cứu cây công nghiệp nhiệt đới xuất khẩu, Bồi dưỡng văn hoá và luyện thi đại học.
Từ năm 1985 ngoài chương trình đào tạo đại học Trường được giao nhiệm vụ đào tạo sau đại học.
Từ khi mới thành lập, trường đã mở rộng hợp tác với nhiều trường đại học danh tiếng trên thế giới và nhiều tổ chức quốc tế. Thông qua chương trình hợp tác với Đại học Nông nghiệp Thuỵ Điển, Trường mở nhiều khoá đào tạo Thạc Sĩ về nông nghiệp bền vững dựa trên chăn nuôi cho sinh viên các nước Đông Nam Á (Campuchia, Lào, Thái Lan, Việt Nam) Mỹ Châu La tinh (Colombia, Nicaragoa) và Châu Phi (Ethiopia, Tanzania, Zambia, Zimbabwe). Được Bộ Nông Nghiệp và Bộ Ngoại giao Pháp tài trợ, bốn trường Đại học Thú Y kết nghĩa: Alfort, Lyon,Toulouse, Nantes đã giúp Đại học Nông Lâm mở một khóa đào tạo Thạc sĩ Thú Y thoả mãn đầy đủ các quy định của Bộ Giáo Dục và Đào tạo và đạt tiêu chuẩn quốc tế với một học trình 4 năm, trong đó có một năm học tiếng Pháp. Hàng năm Chính phủ Pháp đã cử 10 giáo sư đầu đàn, danh tiếng của bốn Trường Thú Y kể trên sang giảng dạy tại Đại học Nông Lâm, mỗi chuyến công tác kéo dài 3 tuần đến 1 tháng. Học viên là các cán bộ giảng dạy của các Khoa Chăn nuôi Thú y của các Trường Đại học Nông nghiệp, các Viện nghiên cứu và Trung Tâm Thú Y của cả nước. Thông qua chương trình hợp tác với Viện Quốc Gia Nông học Paris Grignon, Đại học Dijon , Đại học Thú Y Toulouse, Đại học Thú Y Nantes, Ðại học Montpellier, Đại học Nông nghiệp Thuỵ Điển, Đại học Auburn, Đại học Florida, Đại học New South Wales, Viện Công nghệ Á châu Trường đã tiến hành những chương trình đào tạo nghiên cứu sinh theo dạng sandwich, một phần thời gian nghiên cứu sinh học lý thuyết, thực hành, tham khảo tài liệu và làm việc ở các phòng thí nghiệm ở nước ngoài, một phần thời gian tiến hành nghiên cứu trong nước. Kết quả của các chương trình đào tạo này nhiều nghiên cứu sinh đã bảo vệ xuất sắc luận án tiến sĩ với lời khen của Hội đồng chấm luận án.
Nhiều nghiên cứu sinh Canada, Pháp đã đến trường triển khai các công trình nghiên cứu, hoàn thành nhiều luận án có giá trị được xuất bản thành sách như luận án của tiến sĩ Steve Déry của Đại học Laval hoặc các kết quả nghiên cứu đã đóng góp lớn trong phát triển nông nghiệp, được áp dụng rộng rãi trong sản xuất như công trình nghiên cứu sinh sản nhân tạo cá Ba sa của tiến sĩ Philippe Cacot của Viện Quốc gia Nông học Paris Grignon và tổ chức CiRAD Pháp.
Trường Đại học Nông Lâm hiện nay đang hợp tác với 54 Đại học danh tiếng trên thế giới: ĐH Melbourne, ĐH New England, ĐH New South Wales, ĐH James Cook, ĐH Catholic Louvain la Neuve, ĐH Guelph, ĐH Laval, ĐH Sherbroke, ĐH Aarhus, Institut National Agronomique Paris Grignon, ĐH Thú y Alfort, ĐH Thú y Lyon, ĐH Thú y Toulouse, ĐH Thú y Nantes, ĐH Ensia Siarc Montpellier, ĐH Bordeaux 1, ĐH Tours, ĐH Nông nghiệp Purpan, Viện nghiên cứu Lâm nghiệp Rheinland Pfalz, ĐH Meiji, ĐH Kobe, ĐH Osaka, ĐH Ehime, ĐH Kyushu, ĐH Pertanian Malaysia, ĐH Nông nghiệp Wageningen, Trường Quốc tế Nông nghiệp Larenstein, ĐH Central Luzon State, ĐH Silliman, ĐH Philippines tại Los Banos, ĐH Philippines tại Diliman, ĐH Nông nghiệp Thuỵ Điển, ĐH Quốc gia Chung Hsing, ĐH Ling Tung, ĐH Chiang Mai, ĐH Kasetsart, ĐH Khon Kean, ĐH Maejo, Viện Công nghệ Hoàng gia Mongkut Thonburi, ĐH Aberystwyth (Wales), ĐH Reading, ĐH Nottingham, ĐH Auburn, Trung Tâm Đông Tây Hawaii, ĐH Louisiana State, ĐH Hawaii, ĐH Texas Tech, ĐH Texas A & M, ĐH Florida, ĐH Iowa, ĐH Kỹ thuật California, ĐH Quốc gia Singapore, ĐH Sungkyunkwan, ĐH Nông nghiệp Hoàng gia Campuchia, Viện nghiên cứu Thuỷ sản Szarvas....thuộc các nước Anh, Bỉ, Campuchia, Canada, Đài Loan, Đan Mạch, Đức, Pháp, Hà Lan, Hàn Quốc, Hungary, Mỹ, Malaysia, Nhật Bản, Philippines, Singapore, Thái Lan, Thuỵ Điển.
(PGS.TS. Lưu Trọng Hiếu người thứ 2 bên phải tại hội thảo sắn Quốc tế ở Hà Nội)
Trường cũng hợp tác với 30 tổ chức quốc tế: AAACU, AIT, AUF, CIAT,CIRAD, FFTC, IDRC, IPGRI, SECID, ESCAP- CGPRT, ACIAR, CSIRO, GTZ, HELVETAS, ICLARM, ADVRC, FAO, CIP, SEARCA, BIOTROP, SAREC, SIDA, IFS, Bread for the World, Ford Foundation, Trelink, CSI, KWT, MCC, SDC, IRRI, CIMMYT,WB, ADB.
(PGS.TS Lưu Trọng Hiếu người thứ 2 bên phải, trong Ban Tổ chức Hội thảo Sắn Quốc tế lần thứ 6 tại TP. Hồ Chí Minh năm 2000)
Trong suốt năm mươi năm từ ngày thành lập đến nay Trường trải qua ba lần dời địa điểm: Đầu tiên Trường có trụ sở tại Bảo Lộc. Do chiến tranh Trường phải di chuyển về Sài Gòn vào cuối năm 1961. Trong lúc chờ đợi có trụ sở chính thức tại Sài Gòn, Trường phải mượn các giảng đường, phòng học, phòng thí nghiệm của Đại học Dược Khoa, Đại học Khoa học, Nha Khảo cứu Nông Nghiệp, Nha học vụ Nông Lâm Súc, Viện Quốc gia Vi trùng và Bệnh lý gia súc, Viện Pasteur Sài Gòn và Thảo Cầm Viên. Đến năm 1964 Trường có trụ sở tại số 14 và 45 Đại lộ Cường Để Quận Nhất Sài Gòn nay là đường Đinh Tiên Hoàng. Ngay từ khi dời về Sài Gòn, giáo sư Đặng Quan Điện đã nhanh chóng tìm địa điểm xây dựng Trường tại Thủ Đức cạnh Trường Đại Học Khoa học và Đại học Sư Phạm tại Thủ Đức với diện tích 118 ha toạ lạc tại hai xã Tăng Nhơn Phú, quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định và xã Đông Hoà - quận Dĩ An tỉnh Biên Hoà.
Cơ sở Đại học Nông Lâm ngày nay tại Thủ Đức được thiết kế bởi kiến trúc sư tài hoa Ngô Viết Thụ, Khôi Nguyên La Mã, người đã thiết kế Dinh Thống Nhất và nhiều công trình kiến trúc tráng lệ tại Việt Nam. Tôi có cái may được làm việc với anh Ngô Viết Thụ từ khi anh phác thảo bản thiết kế tổng thể khuôn viên của trường tại Thủ Đức.
Anh và tôi thường đi Thủ Đức thăm công trường xây dựng trường để kiểm tra đôn đốc tiến độ thực hiện cho đến ngày toà nhà Phượng Vỹ Đại Sảnh – Flamboyant Hall, các khu cư xá sinh viên và câu lạc bộ sinh viên hoàn thành (31.12.1973). Anh đã thiết kế mặt tiền của tòa nhà Phượng Vỹ theo những đường nét của chữ Nông theo Hán tự với mỹ ý luôn nhắc nhở chúng ta Vụ Nông Vi Bản lấy nông nghiệp làm gốc theo như diễn giải của anh với anh Nguyễn Thành Hải, anh Nguyễn Đăng Long, anh Châu Văn Khê và tôi về ý nghĩa của cách kiến trúc tòa nhà.
Phượng Vỹ Đại Sảnh được bắt đầu khởi công xây dựng tại Thủ Đức vào ngày 20 tháng 2 năm 1972 do hãng thầu kiến trúc Phúc Hòa thực hiện dưới nhiệm kỳ của bác sĩ Nguyễn Thành Hải. Lễ khởi công xây dựng Trường có đông đủ ngoại giao đoàn tham dự. Sau này nhiều công trình kiến trúc, nhiều đại sảnh, nhiều cao ốc, được tiếp tục xây dựng dưới nhiệm kỳ của phó giáo sư tiến sĩ Đoàn Văn Điện và phó giáo sư tiến sĩ Bùi Cách Tuyến.
Ngày nay, ngoài cơ sở chính tại Thủ Đức, Trường còn các cơ sở phụ 213 hecta tại Bình Phước, 20 hecta tại Đồng Nai, 15 hecta tại Long An, 2 hecta tại Mũi Né Bình Thuận.
Khi bắt đầu được thành lập Trường có bốn thành viên sáng lập đóng góp nhiều công sức để Trường càng ngày thêm phát triển. Tứ trụ của Trường là bác sĩ Vũ Ngọc Tân, giáo sư Lê Văn Ký, giáo sư Đặng Quan Điện, và giáo sư Bùi Huy Thục. Bác sĩ Vũ Ngọc Tân và giáo sư Bùi Huy Thục nay đã khuất bóng. Giáo sư Lê Văn Ký và giáo sư Đặng Quan Điện mặc dầu tuổi đã cao, đã hoặc ngoài tám mươi nhưng vẫn còn tiếp tục hoạt động trong công tác khoa học kỹ thuật, vẫn thường xuyên viếng thăm các trại chăn nuôi khuyến cáo công tác quản lý con giống, quản lý nông trại hoặc góp ý với chuyên viên công viên cây xanh làm đẹp các đô thị.
Bác sĩ Vũ Ngọc Tân là vị giám đốc đầu tiên của Trường, là người đến nhận nhiệm sở sớm nhất khi Trường mới có quyết định thành lập. Cùng với sinh viên các khoá đầu, thầy đã dành nhiều công sức, đổ nhiều mồ hôi nước mắt để khai sơn phá thạch, xây dựng giữa chốn rừng núi thanh tĩnh một ngôi trường khang trang, đẹp đẽ có tầm cỡ so với các trường đại học trong vùng thời bấy giờ, biến nơi này thành một thị xã phồn vinh trù phú, một thời đã từng là tỉnh lỵ tỉnh Lâm Đồng, và nay là thủ phủ dâu tằm tơ của cả nước. Từ ngày đảm trách nhiệm vụ lãnh đạo trường từ năm 1955 cho đến lúc mất vào tháng 5 năm 1981 trong suốt hơn một phần tư thế kỷ thầy luôn luôn gắn bó với trường luôn dành thì giờ cho sinh viên thân yêu của mình mặc dù có những thời kỳ thầy đảm nhận nhiều trọng trách ở Bộ Canh Nông nhưng không bao giờ thầy từ bỏ giảng dạy. Sau ngày đất nước thống nhất, thầy có đủ điều kiện để xuất ngoại đoàn tụ với gia đình vì cô là người Pháp và các con của thầy sinh sống tại Pháp nhưng thầy đã quyết định ở lại quê hương với các sinh viên thân yêu của thầy như cha xứ không rời bỏ giáo xứ ở lại để dìu dắc các con chiên. Thầy tiếp tục công tác giảng dạy ở trường dù sức khỏe thầy suy giảm nhiều do bệnh tim và thầy đã mất trong ngôi nhà mà thầy đã mua sau năm 1975 gần ngã tư Hàng Xanh.. Thầy đã ra đi trong vòng tay của những người thân trong gia đình, và tang lễ được cử hành trang nghiêm tại Thánh đường Mông Triệu. Đông đủ gia quyến, bạn bè thân hữu và sinh viên đã tiễn đưa thầy với muôn vàn thương tiếc, kính yêu. Thầy đã cống hiến cả cuộc đời cho trường, cho sinh viên, đã xây dựng khuôn viên trường tại Bảo Lộc thành một ngôi trường khang trang, xinh đẹp. Ngày nay nếu có còn phong thần theo như truyền thống lâu đời của dân tộc ta đối với những người có công sáng lập, khai phá thì thầy rất xứng đáng được vinh danh làm thần Thành Hoàng của trường tại Bảo Lộc như có lần anh Nguyễn Hiền Lương đã tôn vinh thầy như thế.
Tiếp nối nhiệm kỳ giám đốc của Bác sĩ Vũ ngọc Tân, trường lần lượt được sự lãnh đạo của giáo sư Đặng Quan Điện, giáo sư Tôn Thất Trình, bác sĩ Vũ Ngọc Tân lại một lần nữa đảm nhận chức vụ giám đốc trường, kế tiếp là giáo sư Bùi Huy Thục, giáo sư Phùng Trung Ngân, giảng sư Nguyễn Thành Hải. giáo sư Lê Văn Ký đảm nhiệm chức vụ Khoa trưởng Đại học Nông nghiệp từ đầu năm học 1974 - 1975 cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Sau thời kỳ quân quản, Trường được sự lãnh đạo của kỹ sư Trần Hữu Khối, kỹ sư Nguyễn Phan. Vào thập niên 80 thế kỷ trước, trường được sự lãnh đạo của phó giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Hanh. phó giáo sư tiến sĩ Đoàn Văn Điện và phó giáo sư tiến sĩ Dương Thanh Liêm tiếp tục lãnh đạo trường trong thập niên 90. Đương kim hiệu trưởng trường hiện nay là phó giáo sư tiến sĩ Bùi Cách Tuyến, người con ưu tú đã trưởng thành từ trường.
Ngay từ ngày mới thành lập, ngoài các chuyên gia hàng đầu của Bộ Canh Nông và các giáo sư của Đại học Khoa học, Đại học Luật Khoa Sài Gòn, Đại học Kỹ thuật Phú Thọ được mời tham gia giảng dạy, trường còn nhận được sự giúp đỡ vô cùng quý báu của nhiều trường Đại học trên thế giới. Trường đã tiếp đón nhiều giáo sư thường trú đến từ Pháp, Đức, Mỹ, Bỉ. Các giáo sư Maurice Schmidt, giáo sư Tixier, giáo sư Pecrot, giáo sư Stevens, giáo sư Hoenninger đã thường trú tại Bảo Lộc và Sài Gòn trong suốt bốn khoá đầu. Các đại học kết nghĩa Georgia, Florida đã cử nhiều giáo sư và chuyên gia thường trú đến làm việc với trường cho đến tháng 3 năm 1975. Phái đoàn viện trợ kỹ thuật Pháp với nhiều chuyên gia của ORSTOM và các Viện nghiên cứu Pháp đã ở lại trường đến tháng 8 năm 1975.
Sau này được tổ chức SIDA – SAREC tài trợ, Đại học Nông nghiệp Thụy Điển thường xuyên cử tiến sĩ Brian Ogle, tiến sĩ Inger Ledin và nhiều Giáo sư đầu đàn của Thụy Điển sang nghiên cứu và giảng dạy tại Đại học Nông Lâm từ khi bắt đầu dự án Hệ thống canh tác/Chăn nuôi gia súc gia cầm tại Việt Nam. Tiến sĩ Thomas Reg Preston, chuyên gia tư vấn của dự án đã đến sống và làm việc tại Thủ Đức.
Từ năm 1993 đến 1997, Tổ chức Lương Nông đã cử tiến sĩ Kenji Sato đến mở văn phòng điều phối dự án sử dụng tốt hơn nguồn thức ăn sẳn có tại địa phương trong hệ thống nông nghiệp bền vững vùng Đông Nam Á cho năm nước Campuchia, Lào, Philippines, Trung Quốc và Việt Nam. Đại học Nông Lâm được FAO chọn làm Trung tâm điều phối vùng cho dự án.
Từ năm 2001 cho đến nay, Trường được bốn nước trong khu vực hạ lưu sông Mekong Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam cử làm Trung tâm điều phối vùng cho Chương trình hợp tác nghiên cứu nông nghiệp bền vững dựa trên chăn nuôi do Tổ chức SIDA Thụy Điển tài trợ và Văn phòng điều phối được đặt tại Đại học Nông Lâm. Tổ chức HELVETAS - Thụy Sỉ cũng đã cử chuyên gia Rudy sang điều phối dự án Lâm nghiệp xã hội do tổ chức SDC Thụy sỉ tài trợ và Văn phòng của dự án được đặt tại Khoa Lâm nghiệp.
Chương trình viện trợ của Đức cũng cử chuyên gia trường trú sang làm việc với Khoa Bảo quản chế biến Nông sản Thực phẩm. Các Trường Thú Y Quốc gia Lyon, Alfort, Toulouse của Pháp đã cử nhiều giáo sư danh tiếng của trường sang giảng dạy tại Đại học Nông Lâm. giáo sư Barone, giáo sư Bost, giáo sư Euzeby, giáo sư Joubert, giáo sư Drieux, giáo sư Lamy, giáo sư Perpezat là những thú y chi bảo của nước Pháp và của thế giới. Ngành Nông khoa và Lâm Khoa cũng tiếp nhận nhiều giáo sư danh tiếng của Pháp như giáo sư Gaury, giáo sư Commun, giáo sư Roth, giáo sư Macari, Poliniere, Banchi, Chardin, Guichon, Rollet, Maurand, Rocher, Jolly.
Trong suốt năm mươi năm tồn tại, Đại học Nông Lâm đã đào tạo nhiều thế hệ sinh viên ưu tú. Nhiều cựu sinh viên của trường hiện đang đảm nhận nhiều trọng trách như lãnh đạo Bộ, lãnh đạo tỉnh, lãnh đạo các trường đại học, lãnh đạo các viện, các trung tâm nghiên cứu nông nghiệp, lãnh đạo nhiều sở Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn, sở Khoa học và Công nghệ, lãnh đạo nhiều công ty quốc doanh cũng như công ty tư nhân do chính mình đứng ra thành lập, tạo công ăn việc làm cho nhiều người.
Đó là những hạt giống mà trường chúng ta đã gieo, đã ươm trồng trong hai thập niên đầu của trường. Lúc đó trường chúng ta đã thực hiện một nền giáo dục đại học ưu tú, đào tạo nhiều nhân tài, nhiều kỹ sư có năng lực góp phần vào sự nghiệp phát triển nông nghiệp trong các thập kỷ vừa qua. Trong thời kỳ đầu trường chúng ta đã đào tạo những tinh hoa, số lượng tuy ít nhưng phẩm chất cao.
Trường chúng ta không ngừng vươn lên, đào tạo những chuyên viên có năng lực để đáp ứng các yêu cầu mới mà nông nghiệp của thế kỷ XXI đặt ra: Hiệu quả và chất lượng.
Vào buổi bình minh của thế kỷ XXI nông nghiệp không những giải quyết an toàn lương thực thực thực phẩm, gia tăng sản lượng, tạo công ăn việc làm ở nông thôn, đẩy lùi nghèo khó , mà còn phải kết hợp hài hoà giữa phát triển, mở rộng diện tích canh tác với việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ sinh thái, giữ gìn cái đẹp tự nhiên mà Tạo hoá đã ban cho chúng ta.
Đó là một vận hội mới mà trường chúng ta sẽ nhập cuộc. Tôi tin rằng với tinh thần đoàn kết nhất trí trong lãnh đạo nhà trường cũng như toàn thể giảng viên, cán bộ công nhân viên, sinh viên đồng tâm, hiệp lực cùng nhau chung sức, chung lòng. Đại học Nông Lâm sẽ hoàn thành sứ mạng đào tạo, nghiên cứu, chuyển giao kỹ thuật, mở rộng hợp tác quốc tế mà đất nước đang mong đợi.
Tồn tại trong suốt nửa thế kỷ qua, những người con đầu tiên đến với trường nay đã ở tuổi thất thập cổ lai hy, có người còn, có người đã ra đi vĩnh viễn, nhưng bà mẹ Nông Lâm thì vẫn còn đó.
Những người con thân yêu của mẹ sẽ gìn giữ, bảo tồn Trường như đại văn hào Victor Hugo đã bảo tồn nhà thờ Notre Dame de Paris khi viết truyện Thằng gù nhà thờ Đức Bà để Vương cung Thánh đường này tồn tại mãi mãi đến ngày hôm nay.
Đại học Nông Lâm sống mãi trong tâm tư, trong tình cảm nhiều người. Tên gọi Đại học Nông Lâm khắc sâu trong tâm trí, trong ký ức của nhiều người.
Hôm qua, hôm nay và trong mai sau Đại học Nông Lâm đã, đang và sẽ mãi mãi tồn tại trong tâm thức của nhiều thế hệ sinh viên và trong bạn bè năm châu bốn bể.
Ban giảng huấn và sự phát triển nguồn nhân lực Đại Học Nông Lâm trong hai mươi năm đầu của trường
Đại học Nông Lâm xuất thân từ Trường Quốc gia Nông Lâm Mục Blao được thành lập do nghị định 112-BCN/NĐ ngày 19 tháng 11 năm 1955.
Từ ngày thành lập cho đến nay trường đã trải qua nhiều lần thay đổi danh xưng: Trường Quốc gia Nông Lâm Mục Blao, Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc Sài gòn, Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp, Học viện Quốc gia Nông nghiệp, Đại học Nông nghiệp thành viên Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức, Đại học Nông nghiệp IV, Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ chí Minh.
Trong suốt nửa thế kỷ, bảy lần thay tên, nhưng tên trường vẫn luôn giữ cái cội nguồn lúc mới thành lập, đó là cái gốc nông nghiệp trong danh xưng. Mặc dù nghị định thành lập trường được ban hành từ năm 1955 nhưng phải đợi bốn năm sau, năm 1959 khi các giảng đường, phòng thí nghiệm, nông trại, cư xá sinh viên được xây dựng khang trang và quan trọng hơn hết là đội ngủ giảng viên được tăng cường đầy đủ, trường mới chiêu sinh khóa đào tạo Kỹ sư nông nghiệp đầu tiên. Trong bốn năm đó trường đã đào tạo được hai khóa kiểm sự, khóa thứ ba đang đi thực tập tốt nghiệp, khóa thứ tư đang theo học năm thứ hai tại trường, khóa thứ năm vừa mới tuyển và bắt đầu nhập học năm thứ nhất tại trường.
Để chuẩn bị cho chương trình đào tạo Kỹ sư nông nghiệp Ban Giám Đốc trường đã có những bước đi rất thận trọng : xây dựng trường sở khang trang, đội ngủ giáo viên hùng hậu, tài giỏi, trình độ quốc tế, có uy tín trong giới đại học quốc tế. Một năm trước ngày khai giảng khóa đào tạo kỹ sư đầu tiên, Gáo sư Bác sĩ Đặng Quan Điện đã sang Pháp, viếng thăm các trường Đại học Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Thú Y Pháp, được các trường và Chính phủ Pháp đồng ý viện trợ, cam kết sẽ cử các giáo sư có uy tín sang giảng tại Bảo Lộc, Ban Giám Đốc trường lúc đó mới có quyết định chiêu sinh.
Được trúng tuyển vào trường thời bấy giờ là những sinh viên ưu tú, trải qua một kỳ thi tuyển cam go sau khi tốt nghiệp Tú Tài toàn phần. Hai mươi lăm sinh viên giỏi nhất ngành Nông khoa, mười lăm sinh viên giỏi nhất ngành Lâm khoa và hai mươi sinh viên giỏi nhất ngành Súc khoa được tuyển chọn vào trường.
Tiếng Pháp là chuyển ngữ được sử dụng để giảng dạy trong bốn khóa đào tạo kỹ sư đầu tiên. Chương trình đào tạo kỹ sư của trường thời bấy giờ là chương trình đào tạo tinh hoa: Đội ngủ giáo sư giỏi, trình độ quốc tế, sinh viên ưu tú, hiếu học, trường sở, phòng thí nghiệm, nông trại, thư viện được trang bị đầy đủ, môi trường học tập tốt.
Lúc khởi đầu ngoài bốn chuyên gia đầu đàn gắn bó với trường: Bác sĩ Vũ Ngọc Tân, Giáo sư Bác sĩ Đặng Quan Điện, Giáo sư Lê Văn Ký, Giáo sư Bùi Huy Thục trường còn có một đội ngũ giáo sư quốc tế hùng hậu thường trú tại Bảo Lộc gồm Tiến sĩ Maurice Schmidt (Pháp), Giáo sư Tixier (Pháp), Tiến sĩ Stevens (Mỹ), Giáo sư Hoenninger (Đức), Tiến sĩ Pecrot (Bỉ).
Để giải quyết việc giảng dạy các môn khoa học cơ bản, cơ sở ngoài bốn giáo sư Việt Nam và quốc tế thường trú tại trường: Bác sĩ Vũ NgọcTân phụ trách môn Động vật học, Giáo sư Tixier phục trách môn Thực vật học, Tiến sĩ Stevens phụ trách môn Kinh tế đại cương và xã hội học, Tiến sĩ Maurice Schmidt phụ trách các môn Địa chất – Thổ nhưỡng, Khí hậu học, Giáo sư Bùi Huy Thục và Maurice Schmidt môn Nông học đại cương, Giáo sư Lê Văn Ký và Giáo sư Rocher phụ trách môn Lâm học đại cương, Giáo sư Đặng Quan Điện phụ trách môn Súc học đại cương, Kỹ sư Lê Minh Tâm phụ trách môn Hóa phân tích, trường còn mời thỉnh giảng Giáo sư Tiến sĩ Lâm Chánh Bình, Đại học Khoa học Sài gòn phụ trách môn Hóa học đại cương, Hóa Hữu cơ, Kỹ sư Trần Văn Bạch phụ trách các môn Toán, Lý. Trường cử anh Lê Ngọc Điệp trợ lý cho Giáo sư Tixier, anh Huỳnh Quang Hải trợ lý cho Bác sĩ Vũ Ngọc Tân, Kỹ sư Phan Như Hy và anh Trần Trung Ngôn trợ lý cho Tiến sĩ Stevens, anh Nguyễn Hoài Đỉnh trợ lý cho Giáo sư Maurice Schmidt, anh Lê Thiệp trợ lý cho Tiến sĩ Hoenninger.
Lên đến năm thứ hai và năm thứ ba ngoài các chuyên gia đầu đàn của Việt Nam Bác sĩ Vũ Ngọc Tân, Giáo sư Bác sĩ Đặng Quan Điện, Giáo sư Tôn Thất Trình, Bác sĩ Tôn Thất Ngữ, Bác sĩ Lê Thước, Bác sĩ Nguyển Văn Trình, Bác sĩ Nguyễn Văn Tư, Giáo sư Lê Văn Ký, Giáo sư Lê Văn Mười, Kỹ sư Nguyễn Văn Đức, Kỹ sư Trương Văn Hiếu, Giáo sư Bùi Huy Thục, Kỹ sư Đoàn Minh Quan, Kỹ sư Nguyễn Văn Oánh, Kỹ sư Nguyễn Văn Hiệp, Kỹ sư Lương Sĩ Chương, một số các môn học được các giáo sư Mỹ, Pháp, Đức, Bỉ, thường trú tại trường đảm trách. Đó là các Giáo sư Maurice Schmidt, Giáo sư Tixier, Tiến sĩ Stevens, Tiến sĩ Hoenninger, Tiến sĩ Pecrot.
Chính phủ Pháp đã cử Giáo sư R.Barone, Giáo sư Jack Bost, Giáo sư Jacques Euzéby, Giáo sư Joubert, Giáo sư Henri Drieux, Giáo sư Gaury, Giáo sư Macari, Giáo sư Commun, Giáo sư Jolly, Giáo sư Guichon, Giáo sư Rollet, Giáo sư Maurand, Giáo sư Chardin, sang giảng dạy tại trường.
Các giáo sư được cử sang Việt Nam giảng dạy là các giáo sư danh tiếng không những được kính trọng tại Pháp mà còn rất nổi tiếng trong các đại học quốc tế, đã từng có nhiều kinh nghiệm tại các nước nhiệt đới. Nhiều vị đã từng thực hiện nhiều công trình nghiên cứu tại Việt Nam. Các trường đại học Pháp đã cử nhiều giáo sư sang giảng dạy tại trường trong bốn khóa đầu.
Bắt đầu từ khóa năm, năm 1963 tiếng Việt được sử dụng làm chuyển ngữ chính ở đại học. Tuy nhiên đối với các giáo sư ngoại quốc, tiếng Pháp vẫn được sử dụng để giảng dạy.
Đội ngũ cán bộ giảng dảy tại trường dần dần lớn mạnh với nhiều chuyên viên danh tiếng của Bộ Canh Nông chuyển về trường trong đó có Giáo sư Tôn Thất Trình, Giáo sư Ngô Bá Thành, Bác sĩ Tôn Thất Ngữ, Kỹ sư Nguyễn Phố Lu, Kỹ sư Nguyễn Hữu Mưu và nhất là sự trở về của nhiều nhà khoa học trẻ tốt nghiệp từ Pháp từ Mỹ tham gia công tác giảng dạy thường trực tại trường.
Các phái đoàn Pháp được cử sang giảng dạy tại trường thưa dần. Chính phủ Pháp đã cử các chuyên gia : Kỹ sư Yves Banchi, Giáo sư Tiến sĩ Denis Nguyễn Phước Du, Tiến sĩ Trần Văn Nhiều, Giáo sư Lamy, Giáo sư Perpezat, Giáo sư Roth, Kỹ sư Durand, Kỹ sư Didier sang làm việc thường trú tại trường.
Từ năm 1964 nhiều Tiến sĩ, Thạc sĩ, Bác sĩ, Kỹ sư đã hoàn thành chương trình đào tạo tại Pháp, tại Mỹ trở về tăng cường cho ban giảng huấn của trường. Từ Pháp về có có Tiến sĩ Kỹ sư Nguyễn Võ Mỹ, Kỹ sư Lucien Trọng. Từ Mỹ trở về có Bác sĩ Trần Quang Minh, Bác sĩ Nguyễn Thành Hải, Thạc sĩ Châu Văn Khê, Thạc sĩ Nguyễn Văn Tân, Tiến sĩ Châu Tâm Luân, Tiến sĩ Bùi Văn Trợ, Thạc sĩ Trần Trọng Toàn.
Bắt đầu từ năm 1970 nhiều Tiến sĩ, Thạc sĩ Kỹ sư tốt nghiệp ở Đức, Nhật, Úc, Tân Tây Lan, Canada, đã về nước tăng cường cho đội ngũ cán bộ giảng dạy của trường. Trong số các chuyên viên này có Thạc sĩ Lê Văn Phong, Thạc sĩ Dương Đình Học (K.6), Thạc sĩ Lương Tấn Tước, Thạc sĩ Lê Ngọc Chí Minh (K.7), Tiến sĩ Tô Phúc Tường, Tiến sĩ Phan Hoàng Đồng, Tiến sĩ Trương Hoàng Lâm, Tiến sĩ Phạm Hồng Chương, KS Đặng Ngọc Sơn, Thạc sĩ Lê Dũng Dân, KS Trần Văn Duơng. KS Huỳnh Văn Quang cũng tham gia ban giảng huấn của trường phụ trách phòng thí nghiệm Hóa đất đai. Nhưng nguồn nhân lực đông nhất là các tân kĩ sư của trường. Các thủ khoa các á khoa các khoá khi vừa mới tốt nghiệp đều được trường giữ lại để làm cán bộ giảng dảy hoặc nghiên cứu,
Từ khóa đầu tiên cho đến khóa 12 tốt nghiệp vào năm 1974 đã có hơn bảy mươi Kỹ sư Nông khoa, Lâm khoa, Súc khoa, được tuyển dụng vào ban giảng huấn của trường.
Đối với ngành Nông khoa chúng ta thấy có các Kỹ sư Nguyễn Lương Y (K.1), Nguyễn Đăng Long (K.1), Nguyễn Bích Liễu (K.2), Lâm Văn Thương (K.2), Dương Văn Đức (K.3), Trần Như Long (K.3) Lê Nguyên Khôi (K.3) Văn Khắc Thái (K.3), Nguyễn Ru (K.4), Võ Hữu Để (K.5), Nguyễn Bá Khương (K.5), Hồ Văn Lâm (K.5), Hàng Ngọc Ẩn (K.6), Võ Thị Hải (K.6), Nguyễn Thị Phụng (K.6), Nguyễn Ngọc Sâm (K.6), Thế Thị Hợi (K.7), Võ Thị Phương Lan (K.7) Lưu Trường Kiện (K.7), Trần Minh Tiên (K.8), Đổ Cao Thiện (K.8), Hồ Thại (K.8), Nguyễn Hoàng Hoanh (K.9),Trần Kiều Nga (K.10), Nguyễn Văn Tài (K.10), Dương Đình Hội (K.10), Lý Trung Di (K.11), Lý Hồng Sơn (K.11), Phan Gia Tân (K.11), Tạ Trung Chánh (K.12), Huỳnh Thành Nghiệp (K.12), Huỳnh Lệ Nguyên (K.12), Nguyễn Văn Thiện (K.8), Nguyễn Vác (K.11), Trần Ngọc Lâm (K.12), Lê Ấn (Dược sĩ).
Đối với ngành Lâm khoa chúng ta thấy có các Kỹ sư Đổ Cao Thọ (K.1), Đào Văn Tự (K.1), Vũ Văn Cử (K.4), Lâm Bình Lợi (K.4), Trần Hữu Trác (K.4), Hồng Văn Huỳnh (K.5), Nguyễn Tấn Văng (K.6), Võ Văn Thoan (K.8), Nguyễn Văn Thừa (K.8), Nguyễn Đức Bình (K.10), Nguyễn Văn Sở (K.10), Hoàng Hữu Cải (K.11), Châu quang Hiền (K.12), Lê Văn Mính (K.12), Lê Hữu Đức (K.12), Phạm bá Thành (K.11).
Đối với ngành Súc khoa chúng ta thấy có các Kỹ sư Lưu Trọng Hiếu (K.1), Nguyễn Đình Nghiêm (K.1), Ngô Thị Ngọc Diêu (K.3), Đặng Đắc Thiệu (K.3), Nguyễn Thúy Minh (K.6), Nguyễn Thị Nữ (K.6), Đặng Thị Sở (K.6), Trần Quốc Thăng (K.7), Trần Ngọc Đẳnh (K.8), Võ Văn Kiều (K.8), Phan Ngọc Sang (K.8), Huỳnh Văn Xương (K.8), Nguyễn Văn Tú (K.9), Lê Đăng Đảnh (K.10), Bùi Huy Như Phúc (K.10), Trịnh Công Thành (K.10), Nguyễn Văn Công (K.11), Phan Đức Duy (K.11), Lương Hà (K.11), Ngô Văn Mận (CT.K.2), Phạm Ngọc Thơ (K.11), Nguyễn Văn Gắc (K.12), Phan Thanh Hồng (K.12), Nguyễn Văn Khanh (K.12), Nguyễn Trọng Khôi (Dược sĩ), Trần Văn Phát (K.12), Trần Trọng Chơn (K.12), Phạm Chí Thành (K.11), Đổ Đình Hòa (K.11), Nguyễn Bích Nga (K.11).
Trong những năm 70 của thế kỹ trước Kỹ sư Bùi Như Hùng từ Viện Khảo cứu Nông nghiệp, Thạc sĩ Lê Da Tốn từ Bộ Canh Nông, Bác sĩ Phạm Hùng, Bác sĩ Vương Quang Phước từ Nha Học Vụ Nông Lâm Súc và Kỹ sư Phạm Minh Xuân (K.12), cũng vể tham gia ban giảng huấn của trường.
Đồng thời với việc giữ lại các kỹ sư trẻ mới tốt nghiệp, trường cũng rất quan tâm đến việc xây dựng ngành Khoa học cơ bản. Cùng với việc tuyển dụng sáu tân khoa khóa 1, Cử nhân Pham Thị Ngọc Chinh tốt nghiệp Đại học Khoa học Sài gòn cũng được tuyển dụng vào trường phụ trách ngành Khoa học cơ bản. Lần lượt từ năm 1965 đến 1970 tám cử nhân trẻ Toán, Lý, Hóa, Vạn vật được tuyển dụng. Tám cử nhân trẻ này gồm có Cử nhân Ngô huy Cần, Thạc sĩ Hà Dương Cự, Cử nhânTrần Tấn Đức, Cử nhân Phạm Thị Lộc, Cử nhân Trần Lê Nhân, Cử nhân Trần Hữu Tiếng, Cử nhân Nguyễn Hoài Chung và Cử nhân Nguyễn Tần. Đại học Khoa học Sài gòn không những là trường cung cấp cho trường chúng ta một đội ngũ cử nhân trẻ, tài năng, mà còn cử nhiều giáo sư đầu đàn của trường sang giảng dạy các môn khoa học cơ bản, cơ sở tại trường chúng ta. Trong các giáo sư, các Tiến sĩ, các Thạc sĩ nầy chúng ta thấy có Giáo sư Tiến sĩ Phùng trung Ngân, Giáo sư Tiến sĩ Chu Phạm ngọc Sơn, Giáo sư Tiến sĩ Mai Trần ngọc Tiếng, Tiến sĩ Lê Công Kiệt, Tiến sĩ Đồng Sĩ Khiêm, Tiến sĩ Phó Đức Minh, Thạc sĩ Hoàng Mạnh Để, Thạc sĩ Bùi Thúc Thủy, Thạc sĩ Lê khắc Tích, Thạc sĩ Trần Thị Vinh, Cử nhân Đặng vĩnh Thanh.
Giáo sư Tiến sĩ Phùng Trung Ngân không những là giáo sư thỉnh giảng của trường trong nhiều năm mà còn tham gia lãnh đạo trường, giáo sư đã từng là Giám đốc Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp từ tháng 2 đến tháng 5 năm 1970.
Đại học Kỹ thuật Phú Thọ cũng là trường cung cấp cho trường một lực lượng giảng viên hùng mạnh.
Các Kỹ sư Đồng Công Quan, Kỹ sư Đoàn Thành Trung tốt nghiệp kỹ sư công nghệ đã được tuyển dụng vào giảng dạy tại ngành Công thôn. Trường Đại học Kỹ thuật Phú Thọ cũng đã cử gần mười giảng viên thỉnh giảng sang dạy tại trường chúng ta trong đó có các Kỹ sư Nguyễn Hữu Bình, Võ Ngọc Can, Nguyễn Thị Hiệp, Nguyễn Duy Thu Lương, Nguyễn Như Mộng, Phùng Lương Ngọc, Nguyễn Thành Ngưu, Phạm Hữu Tạt, Tôn Thất Thiều, Vĩnh Tiến, Phạm Văn Sanh.
Đại học Luật khoa cũng yểm trợ trường chúng ta đã cử Tiến sĩ Châu Tiến Khương, Tiến sĩ Nguyễn Trường sang giảng dạy các môn kinh tế tại trường chúng ta.
Cũng ngay sau năm năm đầu sau khi khai giảng khóa đào tạo kỹ sư đầu tiên trường đã nhanh chóng cử các giảng viên sang Mỹ, Pháp, Nhật, Úc, Philipines, Thái lan để đào tạo. Trong năm 1963 Kỹ sư Lê Văn Ký đã được cử đi đào tạo sau đại học tại Đại học Wisconsin Mỹ. Năm sau đó 1965, Kỹ sư Lưu Trọng Hiếu và Kỹ sư Nguyễn Đăng Long tiếp tục lên đường sang Mỹ để theo học các chương trình đào tạo MSc và PhD. Lần lượt các Kỹ sư Nguyễn Bích Liễu, Ngô Thị Ngọc Diêu, Kỹ sư Nguyễn Đình Nghiêm, Kỹ sư Nguyễn Phố Lu, Kỹ sư Lâm Văn Thương, Thạc sĩ Châu Văn Khê, Thạc sĩ Nguyễn Văn Tân, tiếp tục lên đường sang Mỹ theo học các chương trình đào tạo MSc và PhD. trong hai năm sau đó 1966,1967.
Giáo sư Lê Văn Ký hoàn thành chương trình thạc sĩ trong 14 tháng, trở về Việt Nam năm 1964, Thạc sĩ Nguyễn Phố Lu trở về trường năm 1969, Tiến sĩ Lưu Trọng Hiếu trở về trường năm 1969, Tiến sĩ Nguyễn Đăng Long trở về trường năm 1970, Tiến sĩ Nguyễn Bích Liễu năm 1971, Tiến sĩ Châu Văn Khê năm 1971, Tiến sĩ Nguyễn Văn Tân năm 1973, Tiến sĩ Lâm Văn Thương năm 1974.
Đồng thời từ năm 1969 đến 1975, trong khuôn khổ hợp tác giữa Đại học Florida với trường chúng ta, lần lượt nhiều Giáo sư trẻ đã lên đường sang Florida để theo học các chương trình Thạc sĩ và Tiến sĩ. Trong các giảng viên trẻ nầy chúng ta thấy có các Kỹ sư Lê Nguyên Khôi, Văn Khắc Thái, Trần Như Long, Dương Văn Đức, Nguyễn Ru, Hồ Văn Lâm, Võ Hữu Để, Nguyễn Bá Khương, Hàng Ngọc Ẩn, Lưu Trường Kiện, Đặng Đắc Thiệu, Trần Quốc Thăng, Đặng Thị Sở, Võ Văn Kiều, Trần trọng Toàn, Lê Da Tốn, Trần Hữu Trác, Hồng Văn Huỳnh, Trần Lê Nhân, Ngô Huy Cần, Hà Dương Cự.
Tiến sĩ Trần Trọng Toàn và Tiến sĩ Đặng Đắc Thiệu hoàn tất chương trình PhD nhanh nhất trở về nước năm 1974.
Trường còn tranh thủ nguồn học bổng của Chính phủ Pháp đã cử Kỹ sư Võ Thị Hải và Kỹ sư Đổ Cao Thiện, sang Pháp theo học chương trình đào tạo Tiến sĩ. Trường cũng cử Kỹ sư Thế Thị Hợi sang Nhật học Kinh tế Nông nghiệp. Các Kỹ sư Võ Thị Phương Lan và Kỹ sư Võ Văn Thừa được cử sang Úc học về Côn trùng học và Lâm nghiệp. Kỹ sư Nguyễn Hoàng Hoanh được cử sang Đại học Philipines tại Los Banos để đào tạo MSc và PhD trong khuôn khổ của chương trình SEARCA. Các Kỹ sư Nguyễn Thúy Minh, Phan Ngọc Sang, Huỳnh Văn Xương, được cử sang Đại học Chulalongkorn để đào tạo bác sĩ thú y, DVM. Năm 1959 đồng thời với việc tuyển sinh vào khóa 1 chương trình đào tạo Kỹ sư Nông Lâm Súc trường cũng tuyển chọn các ứng viên đi du học tại Mỹ. Sau khi trúng tuyển một số ứng viên đã lên trường theo học năm thứ nhất tại Bảo Lộc để chờ ngày lên đường sang du học tại Mỹ. Trong số các ứng viên nầy có các anh Dương Trung Hưng, Nguyễn Văn Tân, Nguyễn Văn Tiên, Trần Trọng Toàn.
Một số ứng viên khác ở lại Sài Gòn để học Anh Văn trong khi chờ ngày lên đường sang Mỹ du học. Các anh Vương Quang Hải, Châu Văn Khê, Châu Tâm Luân, Nguyễn Văn Tài, Tạ Cự Hải đã lên đường sang Mỹ vào năm 1959. Các anh Nguyễn Thành Hải, Trần Quang Minh, Ngô Đình Ngoan, Nguyễn Văn Hỷ, Phạm Phi Hoành, lên đường sang Mỹ sớm hơn. Năm 1959 anh Nguyễn Viết Trương bạn đồng song của tôi ở Trung học Petrus Ký được học bổng của Chính phủ Úc lên đường sang Úc học tại Đại học Queensland, tốt nghiệp PhD vào năm 1968, trở về nước xây dựng Khoa Nông nghiệp Viện Đại học Cần Thơ.
Các sinh viên trung đẳng khóa 1, khóa 2, khóa 3, sau khi tốt nghiệp kiểm sự cũng được gửi sang Mỹ du học tiếp chương trình đào tạo BSc và một số đạt thành tích xuất sắc trong học tập được tiếp tục học lên MSc. Trong số các ứng viên nầy có các anh chị Phan Ngọc Châu, Nguyễn Quý Định, Lê Viết Dự, Lê Vinh Qui, Nguyễn Đình Mô, Nguyễn Văn Tràng, Phí Minh Tâm, Hoàng Vũ, Nguyễn Thị Hà, Nguyễn Thị Nghệ, Châu Văn Hạnh, Nguyễn Văn Hành, Nguyễn Thanh Tân, Vũ Quốc Dũng, Tống Ngọc Tiên, Lê Ngọc Diệp, Nguyễn Hoài Đỉnh, Nghiêm Xuân Thịnh, Nguyễn Thị Kỉnh, Hà Thị Liễu.
Đầu thập niên 50 các thầy Nguyễn Văn Mừng, Trương Đình Phú, cô Nguyễn Thị Quýt cũng đã lên đường sang Mỹ du học. Không những gửi giáo viên sang Mỹ, Pháp, Nhật, Úc, Philippines, Thái Lan trường còn tranh thủ chương trình học bổng SEARCA của tổ chức Hội đồng các Bộ Trưởng Giáo dục Đông Nam Á SEAMEO gửi các sinh viên sang Đại học Philippines tại Los Ba nos để đào tạo MSc và PhD. Các sinh viên được hưởng học bổng này gồm các anh các chị Phạm Ngọc Hiệp, Nguyễn Tri Khiêm, Cao Minh Thư, Lý Tửng, Phan Hiếu Hiền, Nguyễn Văn Ngưu, Bùi Xuân, Nguyễn Tịnh, Nguyễn Thị Hoàn, Nguyễn Thị Sâm, Nguyễn Đức Cao, Trần Văn Trung, Lê Trọng Trung, Nguyễn Thái Vân, Phan Quang Vinh, Trương Văn Đến, Nguyễn Thị Tuyền, Lâm Hổ, Phạm Thọ Hiếu, Cao Văn Quảng, Hoàng Chí Cường, Lê Ngọc Sên, Phạm Bình Chạy…….
Ngay từ đầu mới thành lập trường rất quan tâm đến việc đào tạo các Kỹ sư Nông nghiệp có trình độ có năng lực góp phần vào sự nghiệp phát triển nông nghiệp khi hòa bình trở lại trên quê hương. Trường luôn luôn tranh thủ mọi nguồn tài trợ để đào tạo nhân tài cho đất nước và chất lượng đội ngủ cán bộ giảng dạy được trường quan tâm hàng đầu. Qua bảng danh sách các cán bộ của trường trong năm học 1971-1972 mà tôi có được chúng ta thấy được thực lực của ban giảng huấn của trường thời đó và chúng ta đã thấy được mối quan tâm của trường trong việc xây dựng một đội ngủ cán bộ giảng dạy có trình độ cao.
Đường về tương lai
Khi viết bài này tôi cố gắng tìm lại trong ký ức hình ảnh của từng giảng viên đã từng giảng dạy ở trường. Tôi cố nhớ từng chi tiết sự việc, nhưng chuyện của bốn mươi năm, năm mươi năm về trước khó có thể nhớ cho hết, mà có nhớ chắc không sau tránh khỏi sơ xuất, sai sót, nhầm lẫn tôi mong được các bạn thông cảm và bỏ qua cho nếu có gì sai sót nhầm lẫn.
Viết về giai đoạn hai mươi năm lúc mới thành lập trường có lẽ hiện nay còn rất ít chứng nhân còn nhiều ký ức về giai đoạn nầy.
Đối với giai đoạn của trường từ thập niên 70 của thế kỷ trước cho đến ngày hôm nay thì hiện nay ở trường có rất nhiều thầy cô đương nhiệm, có nhiều tài liệu để viết nên tôi mong rằng bài nầy sẽ là tiền đề để cho những bài nữa viết về giai đoạn ba mươi năm trở lại đây của trường. Nếu viết một bài bao quát đề cập đến gần hơn năm sáu trăm cán bộ giảng dạy khó quá thì từng khoa từng Bộ môn trực thuộc trường có thể viết về khoa của mình hoặc về bộ môn của mình.
Năm 1975 sau khi chiến tranh chấm dứt, hòa bình trở lại trên quê hương, Đại học Nông nghiệp Thủ Đức đứng trước tình trạng băng não, chảy máu chất xám trầm trọng. Nhiều cán bộ giảng dạy nhất là các con chim đầu đàn đã từ giả trường rời xa quê hương sống tha phương nước ngoài. Nguồn nhân lực mà trường đã dày công xây dựng phát triển trong suốt hai mươi năm từ ngày thành lập gần như mất trắng, trường lại quay về khởi điểm, khởi sự trở lại từ đầu.
Nhiều giảng viên đã được điều động từ các trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, Hà Bắc, Bắc Thái vào Nam tăng cường ban giảng huấn Nhiều tân Kỹ sư tốt nghiệp các khóa 13,14,15,16 và nhiều khóa sau nầy được tuyển dụng với số lượng lớn. Hàng năm từ 10 đến 20 cán bộ trẻ được giữ lại trường để giảng dạy hoặc nghiên cứu.
Trường không những giữ lại các sinh viên ưu tú của trường mà trường còn tuyển dụng sinh viên của Đại học Tổng hợp, Đại học Bách khoa, Đại học Dược khoa về tăng cường ban giảng huấn. Số giảng viên cơ hữu của trường càng ngày càng gia tăng hiện nay lên đến 574 giảng viên gồm 16 Phó Giáo sư, 76 Tiến sĩ, 202 Thạc sĩ, 226 Kỹ sư hoặc Cử nhân.Thông qua con đường hợp tác quốc tế và thông qua quỹ đào tạo nước ngoài bằng kinh phí nhà nước trường tiếp tục phát triển nguồn nhân lực của trường như đã được đề cập trong phần hợp tác quốc tế của trường .
Nói về giảng viên trẻ của thập niên sáu mươi thế kỷ trước chúng ta không thể nào quên các anh Nguyễn Lương Y và anh Nguyễn Võ Mỹ bạn tôi, những người đã nêu tấm gương luôn phấn đấu vươn lên và tấm lòng vị tha luôn nghỉ đến người khác và nay hai anh đã đi xa khi tuổi vừa ngoài ba mươi.
Anh Nguyễn Lương Y đổ vào trường khoá 3 Trung đẳng năm 1957. Trong quá trình học tập ở trường anh nhờ các thầy chỉ giáo tự ôn tập và thi đổ Tú tài Toàn phần và đăng ký dự thi vào cấp Cao đẳng. Với học lực của anh có thể sau khi tốt nghiệp Trung đẳng anh sẽ được Trường đề cử sang Mỹ học, nhưng anh đã chọn theo học Kỹ sư trong nước. Và anh đã đổ vào khoá 1 Cao đẳng. Cũng như các sinh viên tốt nghiệp từ các trường Trung học đào tạo theo chương trình Việt, tiếng Pháp của anh không giỏi như các anh chị học các trường Jean Jacques Rousseau, MarieCurie, Tabert, Couvent des Oiseaux, Yersin và trong thời gian học cấp trung học cơ sở anh lại học ở nông thôn các tỉnh miền duyên hải, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Nam Ngãi Bình Phú chịu nhiều thiệt thòi hơn học sinh các trường ở các đô thị lớn ở miền Nam, nhưng anh đã có nhiều cố gắng, tự lực vươn lên phi thường để rồi khi tốt nghiệp ra trường anh đã thủ khoa ngành Nông khoa, viết một luận trình về Cao su do Kỹ sư Poliniere ở Viện Cao su Lai Khê hướng dẫn. Anh đã bảo vệ luận trình xuất sắc, được Trường giữ lại làm giảng nghiêm viên tức trợ lý giảng dạy. Do tình trạng tổng động viên anh phải nhập ngũ và được huấn luyện tại trường Bộ binh Thủ Đức. Không ai ngờ rằng anh đã văn hay mà võ cũng giỏi. Anh đã đổ thủ khoa khoá 16 trường Bộ Binh Thủ Đức. Anh tham gia cách mạng và tổ công tác của anh bại lộ, Anh bị bắt, trên đường đưa anh từ Quảng Nam (quê anh) ra Đà Nẵng xe chở anh trúng mìn và anh đã hy sinh. Tôi không bao giờ quên người bạn dễ thương dễ mến luôn luôn giúp đỡ mọi người, một con người của hòa giải ngoài tính hiếu học và ý chí luôn luôn vươn lên của anh.
Người bạn thứ hai mà tôi không bao giờ quên , anh Tiến sĩ Kỹ sư Nguyễn Võ Mỹ. Anh đã đi du học ở Pháp, tốt nghiệp Tiến sĩ Kỹ sư Học Viện Quốc Gia Nông học Paris Grignon trở về nước lúc tuổi vào khoảng ba mươi. Anh là một Tiến sĩ Nông học trẻ có trình độ, học thức cao, người nho nhã, lịch sự, dễ thương, đối xử với anh em trẻ với tất cả tất lòng của một người anh. Anh ăn nói thật nhỏ nhẹ và rất thương sinh viên. Cũng như anh Nguyễn Lương Y do tình trạng tổng động viên anh phải nhập ngũ. Năm Tết Mậu Thân anh trực ở một đồn ở gần trường đua Phú Thọ quận 11. Thật ra hôm mồng một tết không phải ngày trực của anh nhưng vì có người bạn trẻ cũng thuộc gia đình nông nghiệp vừa mới lập gia đình nên anh bảo anh bạn để anh gát thay cho. Trong đợt tổng tấn công xuân Mậu Thân đồn của anh bị pháo kích dữ dội. Anh đã bị trúng thương và được đưa vào bênh viện giải phẩu. Tưởng rằng thoát khỏi cơn hiểm nguy anh sẽ bình phục nào ngờ anh mất vì nhiễm trùng sài uốn ván do hậu phẩu không được quan tâm kỷ lưỡng. Vì lòng vị tha thương người, luôn nghỉ đến người khác anh đã hy sinh. Lúc đó tôi đang học bên Mỹ. Được tin hai người bạn thân gục ngã tôi cầu mong sao đất nước được sớm thanh bình. Và hòa bình đã đến, đến mười năm sau đó.
Anh Nguyễn Lương Y, anh Nguyễn Võ Mỹ những người con ưu tú của trường đã nêu những tấm gương luôn phấn đấu không ngừng vươn lên, có con tim nhân hậu, tấm lòng vị tha bác ái mà chúng ta cần học tập và trường chúng ta không bao giờ quên hai anh.
Đường về tương lai
Tôi đến với trường từ thuở trường mới thành lập nên tôi được biết nhiều về trường, tôi hay viết về chuyện thuở xưa, chuyện ngày xửa, ngày xưa. Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy ngàn năm nào dễ mấy ai quên nên tôi mãi đi tìm, tìm về quá khứ, tìm về giữa giấc mơ xưa, tìm về một thời vang bóng.
Nhiều bạn trẻ khuyên tôi đừng nếu kéo thời gian, quá khứ đã qua rồi hãy để nó chìm trong quên lãng, nhớ thương cũng hoài công thôi, hãy hướng về tương lai. Tương lai nhiều hứa hẹn hơn, tương lai đầy sáng lạng hơn, tương lai rực rỡ hơn, tương lai huy hoàng hơn.
Anh em trẻ là người quyết định tương lai, nên tôi theo lời khuyên của anh em trẻ mà tìm đường về tương lai.
Giáo sư Tôn Thất Trình tuy bận trọng trách hai lần giữ chức Tổng Trưởng Bộ Canh Nông và Cải Cách Điền Địa của chính phủ Sài Gòn năm 1967 và 1973 nhưng thầy vẫn làm Giảng sư và Hiệu trưởng của Trường. Sau ngày Việt Nam thống nhất, thầy Tôn Thất Trình làm chánh chuyên viên, tổng thư ký Ủy Ban Lúa Gạo Quốc Tế của FAO (Rome) tiếp tục đóng góp hiệu quả cho nông nghiệp Việt Nam. Bài viết “Thầy bạn là lộc xuận cuộc đời” đã ghi lại. Việc ghi chép tỷ mỷ quá trình thành lập Trường, cách tổ chức ban giảng huấn và sự phát triển nguồn nhân lực Đại Học Nông Lâm trong hai mươi năm đầu và hơn ba mươi năm sau ở “Trường tôi và lòng thương yêu gửi lại của thầy Lưu Trọng Hiếu” là bài học lịch sử cho sự nghiên cứu phát triển.
Nhiệm vụ dạy học là “dạy thái độ, dạy phương pháp, dạy nghề”. Trong đó, dạy phương pháp là quan trọng và cơ bản nhất ở trường đại học để phát triển trí tuệ của sinh viên, thúc đẩy việc giáo dục tư duy sáng tạo và năng lực hoạt động thực tiễn. Trường đại học là nơi đào tạo tập trung nguồn nhân lực chất lượng cao cho nhu cầu xã hội. Trong điều kiện bùng nổ thông tin, khoa học công nghệ phát triển thì kiến thức sinh viên tự học được từ gia đình, xã hội và truyền thông phong phú hơn những tri thức họ tiếp thu được từ bài giảng. Cho nên việc dạy thái độ ứng xử, phương pháp tìm tòi, cách hệ thống hóa tri thức, năng lực tư duy sáng tạo và hoạt động thực tiễn là rất quan trọng và cơ bản nhất trong dạy và học đại học. Chừng nào mỗi chúng ta chưa ứa nước mắt thấm hiểu sự nhọc nhằn của người nông dân một nắng hai sương làm ra hạt gạo. Chừng nào những giá trị lao động khoa học cao quý, liên tục, âm thầm chưa mang lại đủ niềm vui cho bữa ăn của người dân nghèo. Chừng đó chúng ta sẽ còn phải DẠY VÀ HỌC. Cái gốc của sự học là HỌC LÀM NGƯỜI. Học ở đâu? Học ở trường, học trong sách vở, học lẫn nhau và học ở dân. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Thước đo lòng trung thành đối với tổ quốc và nhân cách của người trí thức là sự cống hiến đối với sản xuất đời sống và cộng đồng.
Video yêu thích TRƯỜNG TÔI
PGS.TS. Lưu Trọng Hiếu
Bài viết nhân kỷ niệm 50 thành lập Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh
Năm mươi năm thành lập Trường Đại Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh; Một trăm năm thành lập ngành đào tạo Thú Y tại Việt Nam
Thường thì khi cưới nhau được hai mươi lăm năm người ta tổ chức đám cưới bạc và cưới nhau được năm mươi năm người ta tổ chức đám cưới vàng. Năm nay, trường chúng ta tổ chức lễ Kim Khánh để mừng Trường vừa tròn năm mươi tuổi và cũng là dịp để chúng ta ôn lại một trăm năm thành lập ngành đào tạo thú y Việt Nam.
Năm 1974 để chuẩn bị phúc trình tốt nghiệp kỹ sư, anh Nguyễn Văn Kiểm có đề nghị tôi hướng dẫn anh tìm hiểu về việc đào tạo chuyên viên cao cấp ngành Thú Y và Chăn Nuôi tại Việt Nam. Tôi nhận lời vì biết anh rất gắn bó với ngành giáo dục nông nghiệp từ khi anh đến trường vào những năm đầu tiên khi trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Blao vừa được thành lập tại tỉnh Đồng Nai Thượng. Anh đã dành nhiều thời gian và công sức đến thư viện Quốc gia và thư viện Bộ Canh Nông tham khảo tài liệu, xin ý kiến của nhiều vị giáo sư, nhiều vị lão thành trong ngành nông nghiệp. Anh đã sưu tập, sao chép lại toàn bộ các nghị định, các sắc lệnh thành lập trường, thành lập ngành giáo dục Thú Y qua các thời kỳ Toàn quyền Beau, Toàn quyền Sarraut, Toàn quyền Merlin, Toàn quyền Decoux và sau năm 1954 anh đã sưu tập lại toàn bộ các nghị định, các sắc lệnh có liên quan đến việc thành lập Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Blao, quy chế tuyển sinh, chương trình đào tạo, quy chế giáo sư cho đến năm 1974 là năm anh viết bảng phúc trình tốt nghiệp. Bảng phúc trình này hiện đang được lưu trữ và có thể tham khảo tại thư viện Đại Học Nông Lâm Thủ Đức Thành Phố Hồ Chí Minh.
(PGS.TS Lưu Trọng Hiếu, người thứ hai bên phải, cùng nguyên Hiệu trưởng Bùi Cách Tuyến trong chuyến công tác ở Hà Nội)
Hơn ba mươi năm qua từ đó cho đến nay một hệ thống giáo dục nông nghiệp được thành lập từ Bắc chí Nam, nhiều trường đại học, trung học nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, thuỷ lợi đã ra đời. Tôi thiết nghĩ nên có những công trình nghiên cứu, sưu tập lại các văn bản, các nghị định thành lập các trường, các văn bản hướng dẫn tuyển sinh, các chương trình đào tạo, nghiên cứu trong hệ thống giáo dục nông nghiệp như công trình của kỹ sư Nguyễn Văn Kiểm đã thực hiện trước đây.
Theo báo cáo và các tài liệu mà anh Nguyễn Văn Kiểm sưu tập được thì từ những thập niên cuối của thế kỷ XIX người Pháp đã thiết lập một hệ thống bảo vệ gia súc tại Việt Nam theo bộ luật ngày 22 tháng 7 năm 1881, đặc biệt là các điều 38 và 39 trong bộ luật này có liên quan đến chức năng của Sở Thú Y.
Vào năm 1904, người Pháp đã bắt đầu mở ngành đào tạo thú y sĩ tại Việt Nam để phục vụ cho công tác phòng chống dịch bệnh gia súc, thanh tra thú sản. Nhiệm vụ đào tạo bác sĩ thú y sĩ lúc đầu được giao cho Trường Y Khoa Hà Nội theo nghị định ngày 25 tháng 10 năm 1904 của Toàn quyền Beau về việc tổ chức lại trường này. Đến năm 1910 Ban Thú Y của Trường Y khoa và bệnh xá thú y được cải biến thành Trường Thú Y Bắc Kỳ tách ra khỏi Trường Y Khoa và được đặt dưới sự chỉ đạo của Thống sứ Bắc Kỳ theo nghị định ngày 11 tháng 8 năm 1910 của Toàn quyền Klobukowshi.
Đến năm 1917 Trường Thú Y Bắc Kỳ được cải biến thành Trường Thú Y Đông Dương theo nghị định ngày 15 tháng 9 năm 1917 của Toàn quyền Sarraut.
Đến năm 1922 ngoài bệnh xá thú y, Trường Thú Y còn có Phòng thí nghiệm nghiên cứu thú y theo như nghị định ngày 18 tháng 11 năm 1922.
Nghị định ngày 24 tháng 3 năm 1925 của Toàn quyền Merlin ấn định quy chế hoạt động và học tập của sinh viên Trường Thú Y Đông Dương. Chương trình học tập của sinh viên là 4 năm sau khi tốt nghiệp Tú Tài và sinh viên phải trải qua một kỳ thực tập tại Viện Pasteur Nha Trang trong 3 tháng. Nghị định này cũng nói rõ hoạt động của Phòng thí nghiệm Vi sinh bao gồm cả Vi sinh, ký sinh, khám tử, bệnh xá thú y và dược phòng thú y của Trường.
Tháng 10 năm 1935 Trường Thú Y Đông Dương đóng cửa do khủng hoảng kinh tế và bệnh xá thú y của trường vẫn duy trì hoạt động.
Đến năm 1941 Trường Thú Y hoạt động trở lại theo nghị định ngày 28 tháng 4 năm 1941 của Toàn quyền Decoux.
Ngày 17 tháng 10 năm 1941 bệnh xá thú y Hà Nội lại được sát nhập vào Trường Thú Y Đông Dương. Chương trình học được rút ngắn xuống còn 3 năm rưỡi trong đó năm đầu sinh viên học tại Viện Đại Học Hà Nội cùng với sinh viên Trường Đại học Nông Lâm, ba học kỳ kế tiếp học tại Trường Thú Y và năm cuối cùng học tại Viện Pasteur Nha Trang.
Sang năm 1942 Trường lại cải tổ theo nghị định ngày 3 tháng 8 năm 1942 của Toàn quyền Decoux và chương trình vẫn giữ nguyên là 3 năm rưỡi được phân bố như sau: Năm đầu học tại Viện Đại học Hà Nội cùng với sinh viên Nông Lâm. Năm thứ hai và năm thứ ba học tại Trường Thú Y và học kỳ cuối học tại Viện Pasteur Nha Trang.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945 Trường lại đóng cửa do Nhật đảo chính.
Vào tháng 6 năm 1945 Trường mở cửa trở lại và có tuyển thêm khoá mới, nhưng khoá này chỉ học một năm rồi giải tán.
Đến cách mạng mùa thu, ngày 19 tháng 8 năm 1945 trường lại đóng cửa.
Vào khoảng tháng 2 năm 1946 trường mở cửa trở lại.
Ngày 19 tháng 12 năm 1946 trường lại đóng cửa và sau đó trường được di chuyển vào Thanh Hoá để hoàn tất đào tạo khoá 1944 và sinh viên tốt nghiệp vào năm 1948.
Trường Thú Y Hà Nội, sau này là Trường Thú Y Đông Dương đã tồn tại trong tiền bán thế kỷ XX và những thú y sĩ do trường đào tạo đã phát huy tác dụng bảo vệ đàn gia súc, bảo vệ sức khoẻ cộng đồng trong suốt thế kỷ qua. Những người con ưu tú của trường như bác sĩ Phạm Văn Huyến, nhạc phụ của hai giáo sư Trịnh Văn Thịnh và giáo sư Ngô Bá Thành, phó giáo sư Điền Văn Hưng, phó giáo sư Trần Nhơn, phó giáo sư Nguyễn Vĩnh Phước, bác sĩ Vũ Thiện Thái, bác sĩ Nguyễn Lương, bác sĩ Nguyễn Bá Lương, bác sĩ Nguyễn Hữu Nghiệp, bác sĩ Lê Thước, bác sĩ Nguyễn Trọng Trử, bác sĩ Vũ Đình Chính, bác sĩ Tôn Thất Ngữ, bác sĩ Nguyễn Ngọc Minh, bác sĩ Lê Văn Tứ,, bác sĩ Nguyễn Văn Tư, bác sĩ Lê Hội Phú đã để dấu ấn của mình trong suốt 50 năm qua, đã từng là những nhà giáo ưu tú, là những con chim đầu đàn trong lĩnh vực chăn nuôi thú y, những nhà vi trùng học, nhà bệnh lý học gia súc, nhà ký sinh trùng học, nhà di truyền học, nhà dinh dưỡng học, nhà quản lý chăn nuôi lỗi lạc trong cả nước, là thầy của nhiều người thầy, đã đào tạo nhiều thế hệ sinh viên, đã đóng góp nhiều công trình nghiên cứu chăn nuôi thú y có giá trị phục vụ cho sản xuất và bảo vệ gia súc.
Sau hiệp định Genève năm 1954 Học viện Nông Lâm được thành lập tại miền Bắc và Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Blao, tiền thân của Đại học Nông Lâm được thành lập tại miền Nam.
Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Blao được thành lập theo nghị định 112 BCN/NĐ ngày 19 tháng 11 năm 1955. Trường đào tạo ba ngành Nông Lâm Súc. Trường gồm một cấp Cao đẳng đào tạo các kỹ sư dành cho các sinh viên đã học hết chương trình trung học thời gian học lúc đầu là 3 năm, sau này là 4 năm và cấp Trung đẳng đào tạo các kiểm sự dành cho các học sinh đã đậu bằng Trung học đệ nhất cấp, Trung học phổ thông hoặc học lực tương đương. Thời gian học là 3 năm. Ngoài ra còn có những khoá học theo mùa, theo các chuyên đề tuỳ theo nhu cầu( đào tạo các kỹ thuật viên cải cách điền địa, hợp tác xã, trồng hoa, chăn nuôi…).
Giáo sư đoàn của trường được tuyển lựa từ các chuyên viên cao cấp canh nông, thuỷ lâm, mục súc, được hưởng những quyền lợi cùng các khoản cung cấp cho các giáo sư đại học.
Trường trực thuộc Nha Học vụ Kỹ thuật và Thực hành Canh nông, Bộ Canh Nông. Khóa đầu tiên cấp Trung đẳng được khai giảng vào ngày 12 tháng 12 năm 1955 và khoá đầu tiên cấp Cao đẳng được khai giảng vào ngày thứ hai tuần lễ đầu tiên tháng 11 năm 1959 và đã bế giảng vào ngày thứ bảy tuần lễ đầu tiên tháng 11 năm 1962.
Nghị định 1361/BCTNT/NĐ/HC-2 ngày 26-3-1962 của Bộ Cải Tiến Nông Thôn đã chuyển giao nhiệm vụ và cơ sở Học vụ Kỹ thuật Canh nông và các trường trực thuộc về Bộ Quốc Gia Giáo Dục
Theo nghị định 1184/GD/TC ngày 24-8-1963 cấp Cao đẳng Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục tại Sài Gòn được cải biến thành Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn và do một giám đốc điều khiển, trực thuộc Nha Học vụ Nông Lâm Súc. Cũng theo nghị định này, kể từ niên học 1963-1964 thời hạn học tại Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc được ấn định là 4 năm.
Cấp Trung đẳng Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Bảo Lộc được cải biến thành Trường Trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc.
Theo nghị định 483/GD ngày 23-3-1967 Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc trực thuộc Bộ Giáo Dục. Theo sắc lệnh 158/SL/VHGD/TN ngày 9-11-1968 Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn được cải biến thành Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp trực thuộc Bộ Văn Hoá Giáo Dục và Thanh Niên.
Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp do một giám đốc điều khiển, có một phó giám đốc phụ tá. Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp gồm có ba trường: Cao đẳng Nông Nghiệp, Cao đẳng Thú Y và Chăn Nuôi, và Cao đẳng Thuỷ Lâm. Mỗi trường do một giám đốc điều khiển.
Theo sắc lệnh 174/SL/GD ngày 29-11-1972 Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp được cải biến thành Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp. Học viện có nhiệm vụ huấn luyện, đào tạo và tu nghiệp cho các chuyên viên và cán bộ nông nghiệp cấp kỷ sư và các cấp cao hơn, sưu tầm, nghiên cứu, phát minh, phổ biến các kiến thức, kỹ thuật sản xuất và góp phần thiết lập các dự án nhằm phát triển các lãnh vực nông nghiệp.
Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp gồm các trường Cao đẳng Nông nghiệp, Thuỷ Lâm, Thú y và Chăn nuôi, các phòng thí nghiệm và cơ sở khảo cứu cần thiết để học viện có thể hoàn thành nhiệm vụ.
Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp đặt dưới quyền đều khiển của một viện trưởng, có một phó viện trưởng và một tổng thư ký phụ giúp về học vụ và quản trị. Bên cạnh viện trưởng có hội đồng tư vấn và hội đồng viện.
Theo sắc lệnh 010-SL-VH-GDTN ngày 11-1- 19 Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp, Học Viện Quốc Gia Kỹ Thuật và Ban Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ Thuật được sát nhập vào Viện Đại học Bách Khoa Thủ Đức.
Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp được biến cải thành trường Đại học Nông Nghiệp gồm 5 ngành: Nông khoa, Lâm khoa, Súc khoa, Ngư nghiệp và Kỹ thuật nông nghiệp.
Ban Cao đẳng Sư phạm Kỹ thuật trực thuộc Trường Đại học Giáo Dục.
Sau ngày đất nước thống nhất, Tổng Cục Nông Nghiệp đã chỉ thị tổ chức lại Trường Đại học Nông Nghiệp-Viện Đại học Bách Khoa Thủ Đức. Ngày 8-12-1976, Bộ Nông Nghiệp đã ra quyết định đặt tên trường là Đại Học Nông Nghiệp IV với 4 nhiệm vụ:
• Đào tạo kỹ sư nông nghiệp về Trồng trọt, Chăn nuôi Thú y, Thuỷ sản, Cơ khí nông nghiệp nhằm phục vụ cho phát triển nông nghiệp.
• Đào tạo kỹ sư lâm nghiệp cho đến khi Bộ Lâm Nghiệp chưa mở Trường Lâm Nghiệp riêng cho các tỉnh phía Nam.
• Bồi dưỡng kiến thức, kinh nghiệm tiên tiến về kỹ thuật sản xuất nông nghiệp, về quản lý kinh tế cho các cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế cho các cấp và cơ sở.
• Thành nghiên cứu khoa học, vừa phục vụ cho nâng cao chất lượng đào tạo, vừa góp phần giải quyết những vấn đề thực tiễn của sản xuất nông nghiệp cho các tỉnh phía Nam đặt ra, làm tròn nhiệm vụ trung tâm văn hoá, khoa học, kỹ thuật của nhà trường xã hội chủ nghĩa.
Thời gian đào tạo mỗi khoá là 4 năm và thời gian bồi dưỡng mỗi khoá là từ 3 đến 9 tháng.
Năm 1985 Trường Cao Đẳng Lâm Nghiệp Trảng Bom được sát nhập vào Trường Đại học Nông Nghiệp IV và trường được cải biến thành Trường Đại học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh.
Năm 1995 Trường Đại học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh được sáp nhập vào Đại học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh.
Từ năm 2000 cho đến nay, Trường Đại học Nông Lâm được tách khỏi Đại học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh và trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo. Ngay từ khi mới thành lập trường đã được giao nhiệm vụ :
• Giáo dục và đào tạo chuyên viên cao cấp nông nghiệp để cung ứng nguồn nhân lực chuyên môn cho hai lĩnh vực công và tư.
• Khảo cứu cơ bản và ứng dụng, cập nhật hoá và canh tân kỹ thuật nông nghiệp.
• Phổ biến các kiến thức mới và kỹ thuật tiên tiến về nông nghiệp để giúp nông dân tăng gia sản xuất.
• Ngoài việc huấn luyện về kỹ thuật sinh viên còn được trau dồi phương pháp lãnh đạo, quản trị xí nghiệp, tìm hiểu tâm lý người nông dân, giao tế với quần chúng trong công tác khuyến nông, phổ biến kỹ thuật nông nghiệp.
Trong các khoá đầu từ năm 1959 (khoá I) đến năm 1963 (khoá IV) mỗi năm trường tuyển 60 sinh viên gồm 25 sinh viên ngành Nông khoa, 15 sinh viên ngành Lâm khoa, và 20 sinh viên ngành Súc khoa.
Từ năm 1964 (khoá V) mỗi năm trường tuyển 100 sinh viên và bắt đầu từ năm 1970 (khoá XI) mỗi năm trường tuyển 200 sinh viên gồm 110 sinh viên ngành Nông Khoa, 40 sinh viên ngành Lâm khoa, 50 ngành Súc Khoa. Trong số 200 sinh viên được tuyển, trường tuyển chọn riêng 20 sinh viên có bằng Tú Tài Nông Lâm Súc, xét tuyển miễn thi 5 kiểm sự Nông chính, Thuỷ lâm, Thú Y và 20 sinh viên dân tộc ít người đỗ Tú Tài từ hạng Bình thứ trở lên. Số 155 sinh viên còn lại sẽ được tuyển trong tổng số hơn 3600 ứng viên dự thi, bình quân tỉ lệ tuyển chọn 1/12.
Muốn vào trường, sinh viên phải trên 18 tuổi và dưới 30 tuổi tính đến năm tuyển sinh. Hạng tuổi có thể gia tăng thêm tối đa là 5 đối với các công nhân viên hoặc quân nhân. Có văn bằng Tú Tài toàn phần Toán học hoặc Khoa học thực nghiệm, hoặc tốt nghiệp cấp Trung đẳng Trường Quốc Gia Nông Lâm Mục Blao hay những cấp bằng tương đương phổ thông hay Nông Lâm Muc ngoại quốc. Trúng tuyển kỳ thi tuyển sinh. Đối với công nhân viên chức và quân nhân có đủ điều kiện nói trên phải được phép của cơ quan quản lý mới được dự thi.
Trong những khoá đầu kỳ thi tuyển bao gồm 6 bài thi viết:
• Luận Việt Văn thi trong 2 giờ, hệ số 2.
• Toán thi trong 2 giờ , hệ số 3.
• Lý Hoá thi trong 2 giờ hệ số 3.
• Vạn vật (địa chất, thực vật, động vật) thi trong 2 giờ hệ số 3.
• Pháp văn (một bài luận ) thi trong 2 giờ, hệ số 2
• Anh văn (một bài dịch) thi trong 1 giờ
Những bài thi Toán, Lý, Hoá, Vạn Vật, và dịch Anh văn có thể đáp bằng tiếng Việt hay tiếng Pháp nhưng phải dùng một sinh ngữ cho tất cả 4 bài thi này.
Các bài thi được cho điểm từ 0 đến 20. Thí sinh nào có điểm 0 về các môn thi hay điểm dưới 4/20 về bài thi Pháp văn hay 2 điểm bằng hay dưới 4/20 về ba môn Toán, Lý Hoá , Vạn Vật sẽ đương nhiên bị loại.
Từ năm 1965 các môn thi tuyển sinh còn lại 5 môn: Toán, Lý Hoá, Vạn Vật, Pháp ngữ và Anh ngữ.
Từ năm 1968 trường xét cho nhập miễn thi vào năm thứ nhất tối đa là năm kiểm sự Nông chính, Thuỷ lâm và Thú Y có điểm trung bình từ hạng Bình thứ trở lên ( 12/20) và đã làm việc ít nhất năm năm trong phạm vi chuyên môn và được hội đồng giáo sư trường đề nghị. Cũng từ năm 1968 các môn thi tuyển còn lại 3 môn:
• Toán thi trong 45 phút
• Lý Hoá thi trong 45 phút
• Vạn vật thi trong 45 phút.
Cả 3 môn thi được tổ chức thi trong 1 buổi chiều. Bài thi được chấm điểm trên 100. Các thí sinh có điểm thi 0 sẽ đương nhiên bị loại. Các môn Toán, Lý Hoá thi theo chương trình lớp 12, ban B (ban Toán). Vạn vật thi theo chương trình lớp 11 và 12 ban A (Khoa học thực nghiệm).
Chương trình học bốn khoá đầu là 3 năm, từ khoá năm chương trình học là bốn năm, bình quân sinh viên học từ 2000 đến 2300 giờ lý thuyết và 1800 giờ thực hành. Chuyển ngữ được sử dụng là tiếng Pháp cho bốn khoá đầu, và từ khoá V tiếng Việt được sử dụng để giảng dạy. Năm học được chia làm 2 học kỳ, mỗi học kỳ kéo dài 16 tuần.
Vào cuối mỗi năm học, năm thứ nhất và năm thứ hai sinh viên phải trải qua một kỳ tập sự tổng quát nhằm giúp sinh viên hiểu được thực tế sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, thú y, lâm nghiệp. Cuối năm thứ ba và năm thứ tư sinh viên phải trải qua một kỳ tập sự chuyên môn, tiến hành nghiên cứu một đề tài tốt nghiệp được một giáo sư hay một chuyên viên của Viện khảo cứu hoặc của Bộ Nông nghiệp hướng dẫn.
Đề tài thực tập tốt nghiệp phải là một vấn đề khoa học, kỹ thuật hay kinh tế. Bảng phúc trình trước đây gọi là luận trình được bảo vệ trước một hội đồng giám khảo gồm các giáo sư, giảng sư của trường hoặc chuyên viên của Bộ Canh Nông chuyên sâu về chuyên ngành mà sinh viên báo cáo.
Kể từ năm 1965, sinh viên ngành Nông khoa sau khi học 2 năm đầu có thể chọn các chuyên khoa: Nông học, Kinh tế nông nghiệp, Công thôn, Chế biến nông sản, Ngư nghiệp, còn sinh viên ngành Súc khoa có thể chọn chuyên khoa Chăn nuôi Thú y, Kinh tế nông nghiệp, Chế biến thực phẩm, Ngư nghiệp. Sinh viên Lâm khoa chỉ có thể chọn một chuyên khoa là Lâm nghiệp.
Kể từ năm 1971 Trường mở thêm chuyên ngành Giáo dục nông nghiệp.
Đến năm 1974 khi trường được sát nhập vào Viện đại học Bách khoa Thủ Đức, sinh viên lúc thi vào trường phải chọn một trong 5 chuyên ngành: Nông khoa, Lâm khoa, Súc khoa, Ngư nghiệp, Kỹ thuật nông nghiệp ngay từ đầu.
Khi mới thành lập trường chỉ mở ba ngành đào tạo: Nông khoa, Lâm khoa, Súc khoa. Đến năm 1974 trường có thêm hai ngành đào tạo là Ngư nghiệp và Kỹ thuật nông nghiệp. Hàng năm quy mô tuyển sinh là 200 sinh viên.
Đến nay (năm 2005) trường đã phát triển thành một Đại học đa ngành đào tạo 36 chuyên ngành, với quy mô tuyển sinh 2700 sinh viên đại học mỗi năm. Đại học Nông Lâm hiện có 12 Khoa: Nông học, Chăn nuôi Thú y, Lâm nghiệp, Kinh tế, Cơ khí Công nghệ, Thuỷ sản, Công nghệ thực phẩm, Khoa học, Quản lý đất đai và bất động sản, Ngoại ngữ, Công nghệ thông tin và bốn bộ môn trực thuộc trường: Mác Lênin, Công nghệ sinh học, Sư phạm kỹ thuật nông nghiệp, Cảnh quan và kỹ thuật hoa viên. Ngoài các Khoa, Trường còn có các Trung Tâm: Nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ, Ngoại ngữ, Tin học, Phân tích thí nghiệm, Đào tạo nghiên cứu tư vấn kinh tế xã hội, Công nghệ và thiết bị nhiệt lạnh, Năng lượng và máy nông nghiệp, Công nghệ quản lý môi trường và tài nguyên, Công nghệ sinh học, Nghiên cứu bảo quản và chế biến rau quả, Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật địa chính, Nghiên cứu công nghệ chế biến gỗ, giấy và bột giấy, Nghiên cứu cây công nghiệp nhiệt đới xuất khẩu, Bồi dưỡng văn hoá và luyện thi đại học.
Từ năm 1985 ngoài chương trình đào tạo đại học Trường được giao nhiệm vụ đào tạo sau đại học.
Từ khi mới thành lập, trường đã mở rộng hợp tác với nhiều trường đại học danh tiếng trên thế giới và nhiều tổ chức quốc tế. Thông qua chương trình hợp tác với Đại học Nông nghiệp Thuỵ Điển, Trường mở nhiều khoá đào tạo Thạc Sĩ về nông nghiệp bền vững dựa trên chăn nuôi cho sinh viên các nước Đông Nam Á (Campuchia, Lào, Thái Lan, Việt Nam) Mỹ Châu La tinh (Colombia, Nicaragoa) và Châu Phi (Ethiopia, Tanzania, Zambia, Zimbabwe). Được Bộ Nông Nghiệp và Bộ Ngoại giao Pháp tài trợ, bốn trường Đại học Thú Y kết nghĩa: Alfort, Lyon,Toulouse, Nantes đã giúp Đại học Nông Lâm mở một khóa đào tạo Thạc sĩ Thú Y thoả mãn đầy đủ các quy định của Bộ Giáo Dục và Đào tạo và đạt tiêu chuẩn quốc tế với một học trình 4 năm, trong đó có một năm học tiếng Pháp. Hàng năm Chính phủ Pháp đã cử 10 giáo sư đầu đàn, danh tiếng của bốn Trường Thú Y kể trên sang giảng dạy tại Đại học Nông Lâm, mỗi chuyến công tác kéo dài 3 tuần đến 1 tháng. Học viên là các cán bộ giảng dạy của các Khoa Chăn nuôi Thú y của các Trường Đại học Nông nghiệp, các Viện nghiên cứu và Trung Tâm Thú Y của cả nước. Thông qua chương trình hợp tác với Viện Quốc Gia Nông học Paris Grignon, Đại học Dijon , Đại học Thú Y Toulouse, Đại học Thú Y Nantes, Ðại học Montpellier, Đại học Nông nghiệp Thuỵ Điển, Đại học Auburn, Đại học Florida, Đại học New South Wales, Viện Công nghệ Á châu Trường đã tiến hành những chương trình đào tạo nghiên cứu sinh theo dạng sandwich, một phần thời gian nghiên cứu sinh học lý thuyết, thực hành, tham khảo tài liệu và làm việc ở các phòng thí nghiệm ở nước ngoài, một phần thời gian tiến hành nghiên cứu trong nước. Kết quả của các chương trình đào tạo này nhiều nghiên cứu sinh đã bảo vệ xuất sắc luận án tiến sĩ với lời khen của Hội đồng chấm luận án.
Nhiều nghiên cứu sinh Canada, Pháp đã đến trường triển khai các công trình nghiên cứu, hoàn thành nhiều luận án có giá trị được xuất bản thành sách như luận án của tiến sĩ Steve Déry của Đại học Laval hoặc các kết quả nghiên cứu đã đóng góp lớn trong phát triển nông nghiệp, được áp dụng rộng rãi trong sản xuất như công trình nghiên cứu sinh sản nhân tạo cá Ba sa của tiến sĩ Philippe Cacot của Viện Quốc gia Nông học Paris Grignon và tổ chức CiRAD Pháp.
Trường Đại học Nông Lâm hiện nay đang hợp tác với 54 Đại học danh tiếng trên thế giới: ĐH Melbourne, ĐH New England, ĐH New South Wales, ĐH James Cook, ĐH Catholic Louvain la Neuve, ĐH Guelph, ĐH Laval, ĐH Sherbroke, ĐH Aarhus, Institut National Agronomique Paris Grignon, ĐH Thú y Alfort, ĐH Thú y Lyon, ĐH Thú y Toulouse, ĐH Thú y Nantes, ĐH Ensia Siarc Montpellier, ĐH Bordeaux 1, ĐH Tours, ĐH Nông nghiệp Purpan, Viện nghiên cứu Lâm nghiệp Rheinland Pfalz, ĐH Meiji, ĐH Kobe, ĐH Osaka, ĐH Ehime, ĐH Kyushu, ĐH Pertanian Malaysia, ĐH Nông nghiệp Wageningen, Trường Quốc tế Nông nghiệp Larenstein, ĐH Central Luzon State, ĐH Silliman, ĐH Philippines tại Los Banos, ĐH Philippines tại Diliman, ĐH Nông nghiệp Thuỵ Điển, ĐH Quốc gia Chung Hsing, ĐH Ling Tung, ĐH Chiang Mai, ĐH Kasetsart, ĐH Khon Kean, ĐH Maejo, Viện Công nghệ Hoàng gia Mongkut Thonburi, ĐH Aberystwyth (Wales), ĐH Reading, ĐH Nottingham, ĐH Auburn, Trung Tâm Đông Tây Hawaii, ĐH Louisiana State, ĐH Hawaii, ĐH Texas Tech, ĐH Texas A & M, ĐH Florida, ĐH Iowa, ĐH Kỹ thuật California, ĐH Quốc gia Singapore, ĐH Sungkyunkwan, ĐH Nông nghiệp Hoàng gia Campuchia, Viện nghiên cứu Thuỷ sản Szarvas....thuộc các nước Anh, Bỉ, Campuchia, Canada, Đài Loan, Đan Mạch, Đức, Pháp, Hà Lan, Hàn Quốc, Hungary, Mỹ, Malaysia, Nhật Bản, Philippines, Singapore, Thái Lan, Thuỵ Điển.
(PGS.TS. Lưu Trọng Hiếu người thứ 2 bên phải tại hội thảo sắn Quốc tế ở Hà Nội)
Trường cũng hợp tác với 30 tổ chức quốc tế: AAACU, AIT, AUF, CIAT,CIRAD, FFTC, IDRC, IPGRI, SECID, ESCAP- CGPRT, ACIAR, CSIRO, GTZ, HELVETAS, ICLARM, ADVRC, FAO, CIP, SEARCA, BIOTROP, SAREC, SIDA, IFS, Bread for the World, Ford Foundation, Trelink, CSI, KWT, MCC, SDC, IRRI, CIMMYT,WB, ADB.
(PGS.TS Lưu Trọng Hiếu người thứ 2 bên phải, trong Ban Tổ chức Hội thảo Sắn Quốc tế lần thứ 6 tại TP. Hồ Chí Minh năm 2000)
Trong suốt năm mươi năm từ ngày thành lập đến nay Trường trải qua ba lần dời địa điểm: Đầu tiên Trường có trụ sở tại Bảo Lộc. Do chiến tranh Trường phải di chuyển về Sài Gòn vào cuối năm 1961. Trong lúc chờ đợi có trụ sở chính thức tại Sài Gòn, Trường phải mượn các giảng đường, phòng học, phòng thí nghiệm của Đại học Dược Khoa, Đại học Khoa học, Nha Khảo cứu Nông Nghiệp, Nha học vụ Nông Lâm Súc, Viện Quốc gia Vi trùng và Bệnh lý gia súc, Viện Pasteur Sài Gòn và Thảo Cầm Viên. Đến năm 1964 Trường có trụ sở tại số 14 và 45 Đại lộ Cường Để Quận Nhất Sài Gòn nay là đường Đinh Tiên Hoàng. Ngay từ khi dời về Sài Gòn, giáo sư Đặng Quan Điện đã nhanh chóng tìm địa điểm xây dựng Trường tại Thủ Đức cạnh Trường Đại Học Khoa học và Đại học Sư Phạm tại Thủ Đức với diện tích 118 ha toạ lạc tại hai xã Tăng Nhơn Phú, quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định và xã Đông Hoà - quận Dĩ An tỉnh Biên Hoà.
Cơ sở Đại học Nông Lâm ngày nay tại Thủ Đức được thiết kế bởi kiến trúc sư tài hoa Ngô Viết Thụ, Khôi Nguyên La Mã, người đã thiết kế Dinh Thống Nhất và nhiều công trình kiến trúc tráng lệ tại Việt Nam. Tôi có cái may được làm việc với anh Ngô Viết Thụ từ khi anh phác thảo bản thiết kế tổng thể khuôn viên của trường tại Thủ Đức.
Anh và tôi thường đi Thủ Đức thăm công trường xây dựng trường để kiểm tra đôn đốc tiến độ thực hiện cho đến ngày toà nhà Phượng Vỹ Đại Sảnh – Flamboyant Hall, các khu cư xá sinh viên và câu lạc bộ sinh viên hoàn thành (31.12.1973). Anh đã thiết kế mặt tiền của tòa nhà Phượng Vỹ theo những đường nét của chữ Nông theo Hán tự với mỹ ý luôn nhắc nhở chúng ta Vụ Nông Vi Bản lấy nông nghiệp làm gốc theo như diễn giải của anh với anh Nguyễn Thành Hải, anh Nguyễn Đăng Long, anh Châu Văn Khê và tôi về ý nghĩa của cách kiến trúc tòa nhà.
Phượng Vỹ Đại Sảnh được bắt đầu khởi công xây dựng tại Thủ Đức vào ngày 20 tháng 2 năm 1972 do hãng thầu kiến trúc Phúc Hòa thực hiện dưới nhiệm kỳ của bác sĩ Nguyễn Thành Hải. Lễ khởi công xây dựng Trường có đông đủ ngoại giao đoàn tham dự. Sau này nhiều công trình kiến trúc, nhiều đại sảnh, nhiều cao ốc, được tiếp tục xây dựng dưới nhiệm kỳ của phó giáo sư tiến sĩ Đoàn Văn Điện và phó giáo sư tiến sĩ Bùi Cách Tuyến.
Ngày nay, ngoài cơ sở chính tại Thủ Đức, Trường còn các cơ sở phụ 213 hecta tại Bình Phước, 20 hecta tại Đồng Nai, 15 hecta tại Long An, 2 hecta tại Mũi Né Bình Thuận.
Khi bắt đầu được thành lập Trường có bốn thành viên sáng lập đóng góp nhiều công sức để Trường càng ngày thêm phát triển. Tứ trụ của Trường là bác sĩ Vũ Ngọc Tân, giáo sư Lê Văn Ký, giáo sư Đặng Quan Điện, và giáo sư Bùi Huy Thục. Bác sĩ Vũ Ngọc Tân và giáo sư Bùi Huy Thục nay đã khuất bóng. Giáo sư Lê Văn Ký và giáo sư Đặng Quan Điện mặc dầu tuổi đã cao, đã hoặc ngoài tám mươi nhưng vẫn còn tiếp tục hoạt động trong công tác khoa học kỹ thuật, vẫn thường xuyên viếng thăm các trại chăn nuôi khuyến cáo công tác quản lý con giống, quản lý nông trại hoặc góp ý với chuyên viên công viên cây xanh làm đẹp các đô thị.
Bác sĩ Vũ Ngọc Tân là vị giám đốc đầu tiên của Trường, là người đến nhận nhiệm sở sớm nhất khi Trường mới có quyết định thành lập. Cùng với sinh viên các khoá đầu, thầy đã dành nhiều công sức, đổ nhiều mồ hôi nước mắt để khai sơn phá thạch, xây dựng giữa chốn rừng núi thanh tĩnh một ngôi trường khang trang, đẹp đẽ có tầm cỡ so với các trường đại học trong vùng thời bấy giờ, biến nơi này thành một thị xã phồn vinh trù phú, một thời đã từng là tỉnh lỵ tỉnh Lâm Đồng, và nay là thủ phủ dâu tằm tơ của cả nước. Từ ngày đảm trách nhiệm vụ lãnh đạo trường từ năm 1955 cho đến lúc mất vào tháng 5 năm 1981 trong suốt hơn một phần tư thế kỷ thầy luôn luôn gắn bó với trường luôn dành thì giờ cho sinh viên thân yêu của mình mặc dù có những thời kỳ thầy đảm nhận nhiều trọng trách ở Bộ Canh Nông nhưng không bao giờ thầy từ bỏ giảng dạy. Sau ngày đất nước thống nhất, thầy có đủ điều kiện để xuất ngoại đoàn tụ với gia đình vì cô là người Pháp và các con của thầy sinh sống tại Pháp nhưng thầy đã quyết định ở lại quê hương với các sinh viên thân yêu của thầy như cha xứ không rời bỏ giáo xứ ở lại để dìu dắc các con chiên. Thầy tiếp tục công tác giảng dạy ở trường dù sức khỏe thầy suy giảm nhiều do bệnh tim và thầy đã mất trong ngôi nhà mà thầy đã mua sau năm 1975 gần ngã tư Hàng Xanh.. Thầy đã ra đi trong vòng tay của những người thân trong gia đình, và tang lễ được cử hành trang nghiêm tại Thánh đường Mông Triệu. Đông đủ gia quyến, bạn bè thân hữu và sinh viên đã tiễn đưa thầy với muôn vàn thương tiếc, kính yêu. Thầy đã cống hiến cả cuộc đời cho trường, cho sinh viên, đã xây dựng khuôn viên trường tại Bảo Lộc thành một ngôi trường khang trang, xinh đẹp. Ngày nay nếu có còn phong thần theo như truyền thống lâu đời của dân tộc ta đối với những người có công sáng lập, khai phá thì thầy rất xứng đáng được vinh danh làm thần Thành Hoàng của trường tại Bảo Lộc như có lần anh Nguyễn Hiền Lương đã tôn vinh thầy như thế.
Tiếp nối nhiệm kỳ giám đốc của Bác sĩ Vũ ngọc Tân, trường lần lượt được sự lãnh đạo của giáo sư Đặng Quan Điện, giáo sư Tôn Thất Trình, bác sĩ Vũ Ngọc Tân lại một lần nữa đảm nhận chức vụ giám đốc trường, kế tiếp là giáo sư Bùi Huy Thục, giáo sư Phùng Trung Ngân, giảng sư Nguyễn Thành Hải. giáo sư Lê Văn Ký đảm nhiệm chức vụ Khoa trưởng Đại học Nông nghiệp từ đầu năm học 1974 - 1975 cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Sau thời kỳ quân quản, Trường được sự lãnh đạo của kỹ sư Trần Hữu Khối, kỹ sư Nguyễn Phan. Vào thập niên 80 thế kỷ trước, trường được sự lãnh đạo của phó giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Hanh. phó giáo sư tiến sĩ Đoàn Văn Điện và phó giáo sư tiến sĩ Dương Thanh Liêm tiếp tục lãnh đạo trường trong thập niên 90. Đương kim hiệu trưởng trường hiện nay là phó giáo sư tiến sĩ Bùi Cách Tuyến, người con ưu tú đã trưởng thành từ trường.
Ngay từ ngày mới thành lập, ngoài các chuyên gia hàng đầu của Bộ Canh Nông và các giáo sư của Đại học Khoa học, Đại học Luật Khoa Sài Gòn, Đại học Kỹ thuật Phú Thọ được mời tham gia giảng dạy, trường còn nhận được sự giúp đỡ vô cùng quý báu của nhiều trường Đại học trên thế giới. Trường đã tiếp đón nhiều giáo sư thường trú đến từ Pháp, Đức, Mỹ, Bỉ. Các giáo sư Maurice Schmidt, giáo sư Tixier, giáo sư Pecrot, giáo sư Stevens, giáo sư Hoenninger đã thường trú tại Bảo Lộc và Sài Gòn trong suốt bốn khoá đầu. Các đại học kết nghĩa Georgia, Florida đã cử nhiều giáo sư và chuyên gia thường trú đến làm việc với trường cho đến tháng 3 năm 1975. Phái đoàn viện trợ kỹ thuật Pháp với nhiều chuyên gia của ORSTOM và các Viện nghiên cứu Pháp đã ở lại trường đến tháng 8 năm 1975.
Sau này được tổ chức SIDA – SAREC tài trợ, Đại học Nông nghiệp Thụy Điển thường xuyên cử tiến sĩ Brian Ogle, tiến sĩ Inger Ledin và nhiều Giáo sư đầu đàn của Thụy Điển sang nghiên cứu và giảng dạy tại Đại học Nông Lâm từ khi bắt đầu dự án Hệ thống canh tác/Chăn nuôi gia súc gia cầm tại Việt Nam. Tiến sĩ Thomas Reg Preston, chuyên gia tư vấn của dự án đã đến sống và làm việc tại Thủ Đức.
Từ năm 1993 đến 1997, Tổ chức Lương Nông đã cử tiến sĩ Kenji Sato đến mở văn phòng điều phối dự án sử dụng tốt hơn nguồn thức ăn sẳn có tại địa phương trong hệ thống nông nghiệp bền vững vùng Đông Nam Á cho năm nước Campuchia, Lào, Philippines, Trung Quốc và Việt Nam. Đại học Nông Lâm được FAO chọn làm Trung tâm điều phối vùng cho dự án.
Từ năm 2001 cho đến nay, Trường được bốn nước trong khu vực hạ lưu sông Mekong Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam cử làm Trung tâm điều phối vùng cho Chương trình hợp tác nghiên cứu nông nghiệp bền vững dựa trên chăn nuôi do Tổ chức SIDA Thụy Điển tài trợ và Văn phòng điều phối được đặt tại Đại học Nông Lâm. Tổ chức HELVETAS - Thụy Sỉ cũng đã cử chuyên gia Rudy sang điều phối dự án Lâm nghiệp xã hội do tổ chức SDC Thụy sỉ tài trợ và Văn phòng của dự án được đặt tại Khoa Lâm nghiệp.
Chương trình viện trợ của Đức cũng cử chuyên gia trường trú sang làm việc với Khoa Bảo quản chế biến Nông sản Thực phẩm. Các Trường Thú Y Quốc gia Lyon, Alfort, Toulouse của Pháp đã cử nhiều giáo sư danh tiếng của trường sang giảng dạy tại Đại học Nông Lâm. giáo sư Barone, giáo sư Bost, giáo sư Euzeby, giáo sư Joubert, giáo sư Drieux, giáo sư Lamy, giáo sư Perpezat là những thú y chi bảo của nước Pháp và của thế giới. Ngành Nông khoa và Lâm Khoa cũng tiếp nhận nhiều giáo sư danh tiếng của Pháp như giáo sư Gaury, giáo sư Commun, giáo sư Roth, giáo sư Macari, Poliniere, Banchi, Chardin, Guichon, Rollet, Maurand, Rocher, Jolly.
Trong suốt năm mươi năm tồn tại, Đại học Nông Lâm đã đào tạo nhiều thế hệ sinh viên ưu tú. Nhiều cựu sinh viên của trường hiện đang đảm nhận nhiều trọng trách như lãnh đạo Bộ, lãnh đạo tỉnh, lãnh đạo các trường đại học, lãnh đạo các viện, các trung tâm nghiên cứu nông nghiệp, lãnh đạo nhiều sở Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn, sở Khoa học và Công nghệ, lãnh đạo nhiều công ty quốc doanh cũng như công ty tư nhân do chính mình đứng ra thành lập, tạo công ăn việc làm cho nhiều người.
Đó là những hạt giống mà trường chúng ta đã gieo, đã ươm trồng trong hai thập niên đầu của trường. Lúc đó trường chúng ta đã thực hiện một nền giáo dục đại học ưu tú, đào tạo nhiều nhân tài, nhiều kỹ sư có năng lực góp phần vào sự nghiệp phát triển nông nghiệp trong các thập kỷ vừa qua. Trong thời kỳ đầu trường chúng ta đã đào tạo những tinh hoa, số lượng tuy ít nhưng phẩm chất cao.
Trường chúng ta không ngừng vươn lên, đào tạo những chuyên viên có năng lực để đáp ứng các yêu cầu mới mà nông nghiệp của thế kỷ XXI đặt ra: Hiệu quả và chất lượng.
Vào buổi bình minh của thế kỷ XXI nông nghiệp không những giải quyết an toàn lương thực thực thực phẩm, gia tăng sản lượng, tạo công ăn việc làm ở nông thôn, đẩy lùi nghèo khó , mà còn phải kết hợp hài hoà giữa phát triển, mở rộng diện tích canh tác với việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ sinh thái, giữ gìn cái đẹp tự nhiên mà Tạo hoá đã ban cho chúng ta.
Đó là một vận hội mới mà trường chúng ta sẽ nhập cuộc. Tôi tin rằng với tinh thần đoàn kết nhất trí trong lãnh đạo nhà trường cũng như toàn thể giảng viên, cán bộ công nhân viên, sinh viên đồng tâm, hiệp lực cùng nhau chung sức, chung lòng. Đại học Nông Lâm sẽ hoàn thành sứ mạng đào tạo, nghiên cứu, chuyển giao kỹ thuật, mở rộng hợp tác quốc tế mà đất nước đang mong đợi.
Tồn tại trong suốt nửa thế kỷ qua, những người con đầu tiên đến với trường nay đã ở tuổi thất thập cổ lai hy, có người còn, có người đã ra đi vĩnh viễn, nhưng bà mẹ Nông Lâm thì vẫn còn đó.
Những người con thân yêu của mẹ sẽ gìn giữ, bảo tồn Trường như đại văn hào Victor Hugo đã bảo tồn nhà thờ Notre Dame de Paris khi viết truyện Thằng gù nhà thờ Đức Bà để Vương cung Thánh đường này tồn tại mãi mãi đến ngày hôm nay.
Đại học Nông Lâm sống mãi trong tâm tư, trong tình cảm nhiều người. Tên gọi Đại học Nông Lâm khắc sâu trong tâm trí, trong ký ức của nhiều người.
Hôm qua, hôm nay và trong mai sau Đại học Nông Lâm đã, đang và sẽ mãi mãi tồn tại trong tâm thức của nhiều thế hệ sinh viên và trong bạn bè năm châu bốn bể.
Ban giảng huấn và sự phát triển nguồn nhân lực Đại Học Nông Lâm trong hai mươi năm đầu của trường
Đại học Nông Lâm xuất thân từ Trường Quốc gia Nông Lâm Mục Blao được thành lập do nghị định 112-BCN/NĐ ngày 19 tháng 11 năm 1955.
Từ ngày thành lập cho đến nay trường đã trải qua nhiều lần thay đổi danh xưng: Trường Quốc gia Nông Lâm Mục Blao, Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc Sài gòn, Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp, Học viện Quốc gia Nông nghiệp, Đại học Nông nghiệp thành viên Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức, Đại học Nông nghiệp IV, Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ chí Minh.
Trong suốt nửa thế kỷ, bảy lần thay tên, nhưng tên trường vẫn luôn giữ cái cội nguồn lúc mới thành lập, đó là cái gốc nông nghiệp trong danh xưng. Mặc dù nghị định thành lập trường được ban hành từ năm 1955 nhưng phải đợi bốn năm sau, năm 1959 khi các giảng đường, phòng thí nghiệm, nông trại, cư xá sinh viên được xây dựng khang trang và quan trọng hơn hết là đội ngủ giảng viên được tăng cường đầy đủ, trường mới chiêu sinh khóa đào tạo Kỹ sư nông nghiệp đầu tiên. Trong bốn năm đó trường đã đào tạo được hai khóa kiểm sự, khóa thứ ba đang đi thực tập tốt nghiệp, khóa thứ tư đang theo học năm thứ hai tại trường, khóa thứ năm vừa mới tuyển và bắt đầu nhập học năm thứ nhất tại trường.
Để chuẩn bị cho chương trình đào tạo Kỹ sư nông nghiệp Ban Giám Đốc trường đã có những bước đi rất thận trọng : xây dựng trường sở khang trang, đội ngủ giáo viên hùng hậu, tài giỏi, trình độ quốc tế, có uy tín trong giới đại học quốc tế. Một năm trước ngày khai giảng khóa đào tạo kỹ sư đầu tiên, Gáo sư Bác sĩ Đặng Quan Điện đã sang Pháp, viếng thăm các trường Đại học Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Thú Y Pháp, được các trường và Chính phủ Pháp đồng ý viện trợ, cam kết sẽ cử các giáo sư có uy tín sang giảng tại Bảo Lộc, Ban Giám Đốc trường lúc đó mới có quyết định chiêu sinh.
Được trúng tuyển vào trường thời bấy giờ là những sinh viên ưu tú, trải qua một kỳ thi tuyển cam go sau khi tốt nghiệp Tú Tài toàn phần. Hai mươi lăm sinh viên giỏi nhất ngành Nông khoa, mười lăm sinh viên giỏi nhất ngành Lâm khoa và hai mươi sinh viên giỏi nhất ngành Súc khoa được tuyển chọn vào trường.
Tiếng Pháp là chuyển ngữ được sử dụng để giảng dạy trong bốn khóa đào tạo kỹ sư đầu tiên. Chương trình đào tạo kỹ sư của trường thời bấy giờ là chương trình đào tạo tinh hoa: Đội ngủ giáo sư giỏi, trình độ quốc tế, sinh viên ưu tú, hiếu học, trường sở, phòng thí nghiệm, nông trại, thư viện được trang bị đầy đủ, môi trường học tập tốt.
Lúc khởi đầu ngoài bốn chuyên gia đầu đàn gắn bó với trường: Bác sĩ Vũ Ngọc Tân, Giáo sư Bác sĩ Đặng Quan Điện, Giáo sư Lê Văn Ký, Giáo sư Bùi Huy Thục trường còn có một đội ngũ giáo sư quốc tế hùng hậu thường trú tại Bảo Lộc gồm Tiến sĩ Maurice Schmidt (Pháp), Giáo sư Tixier (Pháp), Tiến sĩ Stevens (Mỹ), Giáo sư Hoenninger (Đức), Tiến sĩ Pecrot (Bỉ).
Để giải quyết việc giảng dạy các môn khoa học cơ bản, cơ sở ngoài bốn giáo sư Việt Nam và quốc tế thường trú tại trường: Bác sĩ Vũ NgọcTân phụ trách môn Động vật học, Giáo sư Tixier phục trách môn Thực vật học, Tiến sĩ Stevens phụ trách môn Kinh tế đại cương và xã hội học, Tiến sĩ Maurice Schmidt phụ trách các môn Địa chất – Thổ nhưỡng, Khí hậu học, Giáo sư Bùi Huy Thục và Maurice Schmidt môn Nông học đại cương, Giáo sư Lê Văn Ký và Giáo sư Rocher phụ trách môn Lâm học đại cương, Giáo sư Đặng Quan Điện phụ trách môn Súc học đại cương, Kỹ sư Lê Minh Tâm phụ trách môn Hóa phân tích, trường còn mời thỉnh giảng Giáo sư Tiến sĩ Lâm Chánh Bình, Đại học Khoa học Sài gòn phụ trách môn Hóa học đại cương, Hóa Hữu cơ, Kỹ sư Trần Văn Bạch phụ trách các môn Toán, Lý. Trường cử anh Lê Ngọc Điệp trợ lý cho Giáo sư Tixier, anh Huỳnh Quang Hải trợ lý cho Bác sĩ Vũ Ngọc Tân, Kỹ sư Phan Như Hy và anh Trần Trung Ngôn trợ lý cho Tiến sĩ Stevens, anh Nguyễn Hoài Đỉnh trợ lý cho Giáo sư Maurice Schmidt, anh Lê Thiệp trợ lý cho Tiến sĩ Hoenninger.
Lên đến năm thứ hai và năm thứ ba ngoài các chuyên gia đầu đàn của Việt Nam Bác sĩ Vũ Ngọc Tân, Giáo sư Bác sĩ Đặng Quan Điện, Giáo sư Tôn Thất Trình, Bác sĩ Tôn Thất Ngữ, Bác sĩ Lê Thước, Bác sĩ Nguyển Văn Trình, Bác sĩ Nguyễn Văn Tư, Giáo sư Lê Văn Ký, Giáo sư Lê Văn Mười, Kỹ sư Nguyễn Văn Đức, Kỹ sư Trương Văn Hiếu, Giáo sư Bùi Huy Thục, Kỹ sư Đoàn Minh Quan, Kỹ sư Nguyễn Văn Oánh, Kỹ sư Nguyễn Văn Hiệp, Kỹ sư Lương Sĩ Chương, một số các môn học được các giáo sư Mỹ, Pháp, Đức, Bỉ, thường trú tại trường đảm trách. Đó là các Giáo sư Maurice Schmidt, Giáo sư Tixier, Tiến sĩ Stevens, Tiến sĩ Hoenninger, Tiến sĩ Pecrot.
Chính phủ Pháp đã cử Giáo sư R.Barone, Giáo sư Jack Bost, Giáo sư Jacques Euzéby, Giáo sư Joubert, Giáo sư Henri Drieux, Giáo sư Gaury, Giáo sư Macari, Giáo sư Commun, Giáo sư Jolly, Giáo sư Guichon, Giáo sư Rollet, Giáo sư Maurand, Giáo sư Chardin, sang giảng dạy tại trường.
Các giáo sư được cử sang Việt Nam giảng dạy là các giáo sư danh tiếng không những được kính trọng tại Pháp mà còn rất nổi tiếng trong các đại học quốc tế, đã từng có nhiều kinh nghiệm tại các nước nhiệt đới. Nhiều vị đã từng thực hiện nhiều công trình nghiên cứu tại Việt Nam. Các trường đại học Pháp đã cử nhiều giáo sư sang giảng dạy tại trường trong bốn khóa đầu.
Bắt đầu từ khóa năm, năm 1963 tiếng Việt được sử dụng làm chuyển ngữ chính ở đại học. Tuy nhiên đối với các giáo sư ngoại quốc, tiếng Pháp vẫn được sử dụng để giảng dạy.
Đội ngũ cán bộ giảng dảy tại trường dần dần lớn mạnh với nhiều chuyên viên danh tiếng của Bộ Canh Nông chuyển về trường trong đó có Giáo sư Tôn Thất Trình, Giáo sư Ngô Bá Thành, Bác sĩ Tôn Thất Ngữ, Kỹ sư Nguyễn Phố Lu, Kỹ sư Nguyễn Hữu Mưu và nhất là sự trở về của nhiều nhà khoa học trẻ tốt nghiệp từ Pháp từ Mỹ tham gia công tác giảng dạy thường trực tại trường.
Các phái đoàn Pháp được cử sang giảng dạy tại trường thưa dần. Chính phủ Pháp đã cử các chuyên gia : Kỹ sư Yves Banchi, Giáo sư Tiến sĩ Denis Nguyễn Phước Du, Tiến sĩ Trần Văn Nhiều, Giáo sư Lamy, Giáo sư Perpezat, Giáo sư Roth, Kỹ sư Durand, Kỹ sư Didier sang làm việc thường trú tại trường.
Từ năm 1964 nhiều Tiến sĩ, Thạc sĩ, Bác sĩ, Kỹ sư đã hoàn thành chương trình đào tạo tại Pháp, tại Mỹ trở về tăng cường cho ban giảng huấn của trường. Từ Pháp về có có Tiến sĩ Kỹ sư Nguyễn Võ Mỹ, Kỹ sư Lucien Trọng. Từ Mỹ trở về có Bác sĩ Trần Quang Minh, Bác sĩ Nguyễn Thành Hải, Thạc sĩ Châu Văn Khê, Thạc sĩ Nguyễn Văn Tân, Tiến sĩ Châu Tâm Luân, Tiến sĩ Bùi Văn Trợ, Thạc sĩ Trần Trọng Toàn.
Bắt đầu từ năm 1970 nhiều Tiến sĩ, Thạc sĩ Kỹ sư tốt nghiệp ở Đức, Nhật, Úc, Tân Tây Lan, Canada, đã về nước tăng cường cho đội ngũ cán bộ giảng dạy của trường. Trong số các chuyên viên này có Thạc sĩ Lê Văn Phong, Thạc sĩ Dương Đình Học (K.6), Thạc sĩ Lương Tấn Tước, Thạc sĩ Lê Ngọc Chí Minh (K.7), Tiến sĩ Tô Phúc Tường, Tiến sĩ Phan Hoàng Đồng, Tiến sĩ Trương Hoàng Lâm, Tiến sĩ Phạm Hồng Chương, KS Đặng Ngọc Sơn, Thạc sĩ Lê Dũng Dân, KS Trần Văn Duơng. KS Huỳnh Văn Quang cũng tham gia ban giảng huấn của trường phụ trách phòng thí nghiệm Hóa đất đai. Nhưng nguồn nhân lực đông nhất là các tân kĩ sư của trường. Các thủ khoa các á khoa các khoá khi vừa mới tốt nghiệp đều được trường giữ lại để làm cán bộ giảng dảy hoặc nghiên cứu,
Từ khóa đầu tiên cho đến khóa 12 tốt nghiệp vào năm 1974 đã có hơn bảy mươi Kỹ sư Nông khoa, Lâm khoa, Súc khoa, được tuyển dụng vào ban giảng huấn của trường.
Đối với ngành Nông khoa chúng ta thấy có các Kỹ sư Nguyễn Lương Y (K.1), Nguyễn Đăng Long (K.1), Nguyễn Bích Liễu (K.2), Lâm Văn Thương (K.2), Dương Văn Đức (K.3), Trần Như Long (K.3) Lê Nguyên Khôi (K.3) Văn Khắc Thái (K.3), Nguyễn Ru (K.4), Võ Hữu Để (K.5), Nguyễn Bá Khương (K.5), Hồ Văn Lâm (K.5), Hàng Ngọc Ẩn (K.6), Võ Thị Hải (K.6), Nguyễn Thị Phụng (K.6), Nguyễn Ngọc Sâm (K.6), Thế Thị Hợi (K.7), Võ Thị Phương Lan (K.7) Lưu Trường Kiện (K.7), Trần Minh Tiên (K.8), Đổ Cao Thiện (K.8), Hồ Thại (K.8), Nguyễn Hoàng Hoanh (K.9),Trần Kiều Nga (K.10), Nguyễn Văn Tài (K.10), Dương Đình Hội (K.10), Lý Trung Di (K.11), Lý Hồng Sơn (K.11), Phan Gia Tân (K.11), Tạ Trung Chánh (K.12), Huỳnh Thành Nghiệp (K.12), Huỳnh Lệ Nguyên (K.12), Nguyễn Văn Thiện (K.8), Nguyễn Vác (K.11), Trần Ngọc Lâm (K.12), Lê Ấn (Dược sĩ).
Đối với ngành Lâm khoa chúng ta thấy có các Kỹ sư Đổ Cao Thọ (K.1), Đào Văn Tự (K.1), Vũ Văn Cử (K.4), Lâm Bình Lợi (K.4), Trần Hữu Trác (K.4), Hồng Văn Huỳnh (K.5), Nguyễn Tấn Văng (K.6), Võ Văn Thoan (K.8), Nguyễn Văn Thừa (K.8), Nguyễn Đức Bình (K.10), Nguyễn Văn Sở (K.10), Hoàng Hữu Cải (K.11), Châu quang Hiền (K.12), Lê Văn Mính (K.12), Lê Hữu Đức (K.12), Phạm bá Thành (K.11).
Đối với ngành Súc khoa chúng ta thấy có các Kỹ sư Lưu Trọng Hiếu (K.1), Nguyễn Đình Nghiêm (K.1), Ngô Thị Ngọc Diêu (K.3), Đặng Đắc Thiệu (K.3), Nguyễn Thúy Minh (K.6), Nguyễn Thị Nữ (K.6), Đặng Thị Sở (K.6), Trần Quốc Thăng (K.7), Trần Ngọc Đẳnh (K.8), Võ Văn Kiều (K.8), Phan Ngọc Sang (K.8), Huỳnh Văn Xương (K.8), Nguyễn Văn Tú (K.9), Lê Đăng Đảnh (K.10), Bùi Huy Như Phúc (K.10), Trịnh Công Thành (K.10), Nguyễn Văn Công (K.11), Phan Đức Duy (K.11), Lương Hà (K.11), Ngô Văn Mận (CT.K.2), Phạm Ngọc Thơ (K.11), Nguyễn Văn Gắc (K.12), Phan Thanh Hồng (K.12), Nguyễn Văn Khanh (K.12), Nguyễn Trọng Khôi (Dược sĩ), Trần Văn Phát (K.12), Trần Trọng Chơn (K.12), Phạm Chí Thành (K.11), Đổ Đình Hòa (K.11), Nguyễn Bích Nga (K.11).
Trong những năm 70 của thế kỹ trước Kỹ sư Bùi Như Hùng từ Viện Khảo cứu Nông nghiệp, Thạc sĩ Lê Da Tốn từ Bộ Canh Nông, Bác sĩ Phạm Hùng, Bác sĩ Vương Quang Phước từ Nha Học Vụ Nông Lâm Súc và Kỹ sư Phạm Minh Xuân (K.12), cũng vể tham gia ban giảng huấn của trường.
Đồng thời với việc giữ lại các kỹ sư trẻ mới tốt nghiệp, trường cũng rất quan tâm đến việc xây dựng ngành Khoa học cơ bản. Cùng với việc tuyển dụng sáu tân khoa khóa 1, Cử nhân Pham Thị Ngọc Chinh tốt nghiệp Đại học Khoa học Sài gòn cũng được tuyển dụng vào trường phụ trách ngành Khoa học cơ bản. Lần lượt từ năm 1965 đến 1970 tám cử nhân trẻ Toán, Lý, Hóa, Vạn vật được tuyển dụng. Tám cử nhân trẻ này gồm có Cử nhân Ngô huy Cần, Thạc sĩ Hà Dương Cự, Cử nhânTrần Tấn Đức, Cử nhân Phạm Thị Lộc, Cử nhân Trần Lê Nhân, Cử nhân Trần Hữu Tiếng, Cử nhân Nguyễn Hoài Chung và Cử nhân Nguyễn Tần. Đại học Khoa học Sài gòn không những là trường cung cấp cho trường chúng ta một đội ngũ cử nhân trẻ, tài năng, mà còn cử nhiều giáo sư đầu đàn của trường sang giảng dạy các môn khoa học cơ bản, cơ sở tại trường chúng ta. Trong các giáo sư, các Tiến sĩ, các Thạc sĩ nầy chúng ta thấy có Giáo sư Tiến sĩ Phùng trung Ngân, Giáo sư Tiến sĩ Chu Phạm ngọc Sơn, Giáo sư Tiến sĩ Mai Trần ngọc Tiếng, Tiến sĩ Lê Công Kiệt, Tiến sĩ Đồng Sĩ Khiêm, Tiến sĩ Phó Đức Minh, Thạc sĩ Hoàng Mạnh Để, Thạc sĩ Bùi Thúc Thủy, Thạc sĩ Lê khắc Tích, Thạc sĩ Trần Thị Vinh, Cử nhân Đặng vĩnh Thanh.
Giáo sư Tiến sĩ Phùng Trung Ngân không những là giáo sư thỉnh giảng của trường trong nhiều năm mà còn tham gia lãnh đạo trường, giáo sư đã từng là Giám đốc Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp từ tháng 2 đến tháng 5 năm 1970.
Đại học Kỹ thuật Phú Thọ cũng là trường cung cấp cho trường một lực lượng giảng viên hùng mạnh.
Các Kỹ sư Đồng Công Quan, Kỹ sư Đoàn Thành Trung tốt nghiệp kỹ sư công nghệ đã được tuyển dụng vào giảng dạy tại ngành Công thôn. Trường Đại học Kỹ thuật Phú Thọ cũng đã cử gần mười giảng viên thỉnh giảng sang dạy tại trường chúng ta trong đó có các Kỹ sư Nguyễn Hữu Bình, Võ Ngọc Can, Nguyễn Thị Hiệp, Nguyễn Duy Thu Lương, Nguyễn Như Mộng, Phùng Lương Ngọc, Nguyễn Thành Ngưu, Phạm Hữu Tạt, Tôn Thất Thiều, Vĩnh Tiến, Phạm Văn Sanh.
Đại học Luật khoa cũng yểm trợ trường chúng ta đã cử Tiến sĩ Châu Tiến Khương, Tiến sĩ Nguyễn Trường sang giảng dạy các môn kinh tế tại trường chúng ta.
Cũng ngay sau năm năm đầu sau khi khai giảng khóa đào tạo kỹ sư đầu tiên trường đã nhanh chóng cử các giảng viên sang Mỹ, Pháp, Nhật, Úc, Philipines, Thái lan để đào tạo. Trong năm 1963 Kỹ sư Lê Văn Ký đã được cử đi đào tạo sau đại học tại Đại học Wisconsin Mỹ. Năm sau đó 1965, Kỹ sư Lưu Trọng Hiếu và Kỹ sư Nguyễn Đăng Long tiếp tục lên đường sang Mỹ để theo học các chương trình đào tạo MSc và PhD. Lần lượt các Kỹ sư Nguyễn Bích Liễu, Ngô Thị Ngọc Diêu, Kỹ sư Nguyễn Đình Nghiêm, Kỹ sư Nguyễn Phố Lu, Kỹ sư Lâm Văn Thương, Thạc sĩ Châu Văn Khê, Thạc sĩ Nguyễn Văn Tân, tiếp tục lên đường sang Mỹ theo học các chương trình đào tạo MSc và PhD. trong hai năm sau đó 1966,1967.
Giáo sư Lê Văn Ký hoàn thành chương trình thạc sĩ trong 14 tháng, trở về Việt Nam năm 1964, Thạc sĩ Nguyễn Phố Lu trở về trường năm 1969, Tiến sĩ Lưu Trọng Hiếu trở về trường năm 1969, Tiến sĩ Nguyễn Đăng Long trở về trường năm 1970, Tiến sĩ Nguyễn Bích Liễu năm 1971, Tiến sĩ Châu Văn Khê năm 1971, Tiến sĩ Nguyễn Văn Tân năm 1973, Tiến sĩ Lâm Văn Thương năm 1974.
Đồng thời từ năm 1969 đến 1975, trong khuôn khổ hợp tác giữa Đại học Florida với trường chúng ta, lần lượt nhiều Giáo sư trẻ đã lên đường sang Florida để theo học các chương trình Thạc sĩ và Tiến sĩ. Trong các giảng viên trẻ nầy chúng ta thấy có các Kỹ sư Lê Nguyên Khôi, Văn Khắc Thái, Trần Như Long, Dương Văn Đức, Nguyễn Ru, Hồ Văn Lâm, Võ Hữu Để, Nguyễn Bá Khương, Hàng Ngọc Ẩn, Lưu Trường Kiện, Đặng Đắc Thiệu, Trần Quốc Thăng, Đặng Thị Sở, Võ Văn Kiều, Trần trọng Toàn, Lê Da Tốn, Trần Hữu Trác, Hồng Văn Huỳnh, Trần Lê Nhân, Ngô Huy Cần, Hà Dương Cự.
Tiến sĩ Trần Trọng Toàn và Tiến sĩ Đặng Đắc Thiệu hoàn tất chương trình PhD nhanh nhất trở về nước năm 1974.
Trường còn tranh thủ nguồn học bổng của Chính phủ Pháp đã cử Kỹ sư Võ Thị Hải và Kỹ sư Đổ Cao Thiện, sang Pháp theo học chương trình đào tạo Tiến sĩ. Trường cũng cử Kỹ sư Thế Thị Hợi sang Nhật học Kinh tế Nông nghiệp. Các Kỹ sư Võ Thị Phương Lan và Kỹ sư Võ Văn Thừa được cử sang Úc học về Côn trùng học và Lâm nghiệp. Kỹ sư Nguyễn Hoàng Hoanh được cử sang Đại học Philipines tại Los Banos để đào tạo MSc và PhD trong khuôn khổ của chương trình SEARCA. Các Kỹ sư Nguyễn Thúy Minh, Phan Ngọc Sang, Huỳnh Văn Xương, được cử sang Đại học Chulalongkorn để đào tạo bác sĩ thú y, DVM. Năm 1959 đồng thời với việc tuyển sinh vào khóa 1 chương trình đào tạo Kỹ sư Nông Lâm Súc trường cũng tuyển chọn các ứng viên đi du học tại Mỹ. Sau khi trúng tuyển một số ứng viên đã lên trường theo học năm thứ nhất tại Bảo Lộc để chờ ngày lên đường sang du học tại Mỹ. Trong số các ứng viên nầy có các anh Dương Trung Hưng, Nguyễn Văn Tân, Nguyễn Văn Tiên, Trần Trọng Toàn.
Một số ứng viên khác ở lại Sài Gòn để học Anh Văn trong khi chờ ngày lên đường sang Mỹ du học. Các anh Vương Quang Hải, Châu Văn Khê, Châu Tâm Luân, Nguyễn Văn Tài, Tạ Cự Hải đã lên đường sang Mỹ vào năm 1959. Các anh Nguyễn Thành Hải, Trần Quang Minh, Ngô Đình Ngoan, Nguyễn Văn Hỷ, Phạm Phi Hoành, lên đường sang Mỹ sớm hơn. Năm 1959 anh Nguyễn Viết Trương bạn đồng song của tôi ở Trung học Petrus Ký được học bổng của Chính phủ Úc lên đường sang Úc học tại Đại học Queensland, tốt nghiệp PhD vào năm 1968, trở về nước xây dựng Khoa Nông nghiệp Viện Đại học Cần Thơ.
Các sinh viên trung đẳng khóa 1, khóa 2, khóa 3, sau khi tốt nghiệp kiểm sự cũng được gửi sang Mỹ du học tiếp chương trình đào tạo BSc và một số đạt thành tích xuất sắc trong học tập được tiếp tục học lên MSc. Trong số các ứng viên nầy có các anh chị Phan Ngọc Châu, Nguyễn Quý Định, Lê Viết Dự, Lê Vinh Qui, Nguyễn Đình Mô, Nguyễn Văn Tràng, Phí Minh Tâm, Hoàng Vũ, Nguyễn Thị Hà, Nguyễn Thị Nghệ, Châu Văn Hạnh, Nguyễn Văn Hành, Nguyễn Thanh Tân, Vũ Quốc Dũng, Tống Ngọc Tiên, Lê Ngọc Diệp, Nguyễn Hoài Đỉnh, Nghiêm Xuân Thịnh, Nguyễn Thị Kỉnh, Hà Thị Liễu.
Đầu thập niên 50 các thầy Nguyễn Văn Mừng, Trương Đình Phú, cô Nguyễn Thị Quýt cũng đã lên đường sang Mỹ du học. Không những gửi giáo viên sang Mỹ, Pháp, Nhật, Úc, Philippines, Thái Lan trường còn tranh thủ chương trình học bổng SEARCA của tổ chức Hội đồng các Bộ Trưởng Giáo dục Đông Nam Á SEAMEO gửi các sinh viên sang Đại học Philippines tại Los Ba nos để đào tạo MSc và PhD. Các sinh viên được hưởng học bổng này gồm các anh các chị Phạm Ngọc Hiệp, Nguyễn Tri Khiêm, Cao Minh Thư, Lý Tửng, Phan Hiếu Hiền, Nguyễn Văn Ngưu, Bùi Xuân, Nguyễn Tịnh, Nguyễn Thị Hoàn, Nguyễn Thị Sâm, Nguyễn Đức Cao, Trần Văn Trung, Lê Trọng Trung, Nguyễn Thái Vân, Phan Quang Vinh, Trương Văn Đến, Nguyễn Thị Tuyền, Lâm Hổ, Phạm Thọ Hiếu, Cao Văn Quảng, Hoàng Chí Cường, Lê Ngọc Sên, Phạm Bình Chạy…….
Ngay từ đầu mới thành lập trường rất quan tâm đến việc đào tạo các Kỹ sư Nông nghiệp có trình độ có năng lực góp phần vào sự nghiệp phát triển nông nghiệp khi hòa bình trở lại trên quê hương. Trường luôn luôn tranh thủ mọi nguồn tài trợ để đào tạo nhân tài cho đất nước và chất lượng đội ngủ cán bộ giảng dạy được trường quan tâm hàng đầu. Qua bảng danh sách các cán bộ của trường trong năm học 1971-1972 mà tôi có được chúng ta thấy được thực lực của ban giảng huấn của trường thời đó và chúng ta đã thấy được mối quan tâm của trường trong việc xây dựng một đội ngủ cán bộ giảng dạy có trình độ cao.
Đường về tương lai
Khi viết bài này tôi cố gắng tìm lại trong ký ức hình ảnh của từng giảng viên đã từng giảng dạy ở trường. Tôi cố nhớ từng chi tiết sự việc, nhưng chuyện của bốn mươi năm, năm mươi năm về trước khó có thể nhớ cho hết, mà có nhớ chắc không sau tránh khỏi sơ xuất, sai sót, nhầm lẫn tôi mong được các bạn thông cảm và bỏ qua cho nếu có gì sai sót nhầm lẫn.
Viết về giai đoạn hai mươi năm lúc mới thành lập trường có lẽ hiện nay còn rất ít chứng nhân còn nhiều ký ức về giai đoạn nầy.
Đối với giai đoạn của trường từ thập niên 70 của thế kỷ trước cho đến ngày hôm nay thì hiện nay ở trường có rất nhiều thầy cô đương nhiệm, có nhiều tài liệu để viết nên tôi mong rằng bài nầy sẽ là tiền đề để cho những bài nữa viết về giai đoạn ba mươi năm trở lại đây của trường. Nếu viết một bài bao quát đề cập đến gần hơn năm sáu trăm cán bộ giảng dạy khó quá thì từng khoa từng Bộ môn trực thuộc trường có thể viết về khoa của mình hoặc về bộ môn của mình.
Năm 1975 sau khi chiến tranh chấm dứt, hòa bình trở lại trên quê hương, Đại học Nông nghiệp Thủ Đức đứng trước tình trạng băng não, chảy máu chất xám trầm trọng. Nhiều cán bộ giảng dạy nhất là các con chim đầu đàn đã từ giả trường rời xa quê hương sống tha phương nước ngoài. Nguồn nhân lực mà trường đã dày công xây dựng phát triển trong suốt hai mươi năm từ ngày thành lập gần như mất trắng, trường lại quay về khởi điểm, khởi sự trở lại từ đầu.
Nhiều giảng viên đã được điều động từ các trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, Hà Bắc, Bắc Thái vào Nam tăng cường ban giảng huấn Nhiều tân Kỹ sư tốt nghiệp các khóa 13,14,15,16 và nhiều khóa sau nầy được tuyển dụng với số lượng lớn. Hàng năm từ 10 đến 20 cán bộ trẻ được giữ lại trường để giảng dạy hoặc nghiên cứu.
Trường không những giữ lại các sinh viên ưu tú của trường mà trường còn tuyển dụng sinh viên của Đại học Tổng hợp, Đại học Bách khoa, Đại học Dược khoa về tăng cường ban giảng huấn. Số giảng viên cơ hữu của trường càng ngày càng gia tăng hiện nay lên đến 574 giảng viên gồm 16 Phó Giáo sư, 76 Tiến sĩ, 202 Thạc sĩ, 226 Kỹ sư hoặc Cử nhân.Thông qua con đường hợp tác quốc tế và thông qua quỹ đào tạo nước ngoài bằng kinh phí nhà nước trường tiếp tục phát triển nguồn nhân lực của trường như đã được đề cập trong phần hợp tác quốc tế của trường .
Nói về giảng viên trẻ của thập niên sáu mươi thế kỷ trước chúng ta không thể nào quên các anh Nguyễn Lương Y và anh Nguyễn Võ Mỹ bạn tôi, những người đã nêu tấm gương luôn phấn đấu vươn lên và tấm lòng vị tha luôn nghỉ đến người khác và nay hai anh đã đi xa khi tuổi vừa ngoài ba mươi.
Anh Nguyễn Lương Y đổ vào trường khoá 3 Trung đẳng năm 1957. Trong quá trình học tập ở trường anh nhờ các thầy chỉ giáo tự ôn tập và thi đổ Tú tài Toàn phần và đăng ký dự thi vào cấp Cao đẳng. Với học lực của anh có thể sau khi tốt nghiệp Trung đẳng anh sẽ được Trường đề cử sang Mỹ học, nhưng anh đã chọn theo học Kỹ sư trong nước. Và anh đã đổ vào khoá 1 Cao đẳng. Cũng như các sinh viên tốt nghiệp từ các trường Trung học đào tạo theo chương trình Việt, tiếng Pháp của anh không giỏi như các anh chị học các trường Jean Jacques Rousseau, MarieCurie, Tabert, Couvent des Oiseaux, Yersin và trong thời gian học cấp trung học cơ sở anh lại học ở nông thôn các tỉnh miền duyên hải, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Nam Ngãi Bình Phú chịu nhiều thiệt thòi hơn học sinh các trường ở các đô thị lớn ở miền Nam, nhưng anh đã có nhiều cố gắng, tự lực vươn lên phi thường để rồi khi tốt nghiệp ra trường anh đã thủ khoa ngành Nông khoa, viết một luận trình về Cao su do Kỹ sư Poliniere ở Viện Cao su Lai Khê hướng dẫn. Anh đã bảo vệ luận trình xuất sắc, được Trường giữ lại làm giảng nghiêm viên tức trợ lý giảng dạy. Do tình trạng tổng động viên anh phải nhập ngũ và được huấn luyện tại trường Bộ binh Thủ Đức. Không ai ngờ rằng anh đã văn hay mà võ cũng giỏi. Anh đã đổ thủ khoa khoá 16 trường Bộ Binh Thủ Đức. Anh tham gia cách mạng và tổ công tác của anh bại lộ, Anh bị bắt, trên đường đưa anh từ Quảng Nam (quê anh) ra Đà Nẵng xe chở anh trúng mìn và anh đã hy sinh. Tôi không bao giờ quên người bạn dễ thương dễ mến luôn luôn giúp đỡ mọi người, một con người của hòa giải ngoài tính hiếu học và ý chí luôn luôn vươn lên của anh.
Người bạn thứ hai mà tôi không bao giờ quên , anh Tiến sĩ Kỹ sư Nguyễn Võ Mỹ. Anh đã đi du học ở Pháp, tốt nghiệp Tiến sĩ Kỹ sư Học Viện Quốc Gia Nông học Paris Grignon trở về nước lúc tuổi vào khoảng ba mươi. Anh là một Tiến sĩ Nông học trẻ có trình độ, học thức cao, người nho nhã, lịch sự, dễ thương, đối xử với anh em trẻ với tất cả tất lòng của một người anh. Anh ăn nói thật nhỏ nhẹ và rất thương sinh viên. Cũng như anh Nguyễn Lương Y do tình trạng tổng động viên anh phải nhập ngũ. Năm Tết Mậu Thân anh trực ở một đồn ở gần trường đua Phú Thọ quận 11. Thật ra hôm mồng một tết không phải ngày trực của anh nhưng vì có người bạn trẻ cũng thuộc gia đình nông nghiệp vừa mới lập gia đình nên anh bảo anh bạn để anh gát thay cho. Trong đợt tổng tấn công xuân Mậu Thân đồn của anh bị pháo kích dữ dội. Anh đã bị trúng thương và được đưa vào bênh viện giải phẩu. Tưởng rằng thoát khỏi cơn hiểm nguy anh sẽ bình phục nào ngờ anh mất vì nhiễm trùng sài uốn ván do hậu phẩu không được quan tâm kỷ lưỡng. Vì lòng vị tha thương người, luôn nghỉ đến người khác anh đã hy sinh. Lúc đó tôi đang học bên Mỹ. Được tin hai người bạn thân gục ngã tôi cầu mong sao đất nước được sớm thanh bình. Và hòa bình đã đến, đến mười năm sau đó.
Anh Nguyễn Lương Y, anh Nguyễn Võ Mỹ những người con ưu tú của trường đã nêu những tấm gương luôn phấn đấu không ngừng vươn lên, có con tim nhân hậu, tấm lòng vị tha bác ái mà chúng ta cần học tập và trường chúng ta không bao giờ quên hai anh.
Đường về tương lai
Tôi đến với trường từ thuở trường mới thành lập nên tôi được biết nhiều về trường, tôi hay viết về chuyện thuở xưa, chuyện ngày xửa, ngày xưa. Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy ngàn năm nào dễ mấy ai quên nên tôi mãi đi tìm, tìm về quá khứ, tìm về giữa giấc mơ xưa, tìm về một thời vang bóng.
Nhiều bạn trẻ khuyên tôi đừng nếu kéo thời gian, quá khứ đã qua rồi hãy để nó chìm trong quên lãng, nhớ thương cũng hoài công thôi, hãy hướng về tương lai. Tương lai nhiều hứa hẹn hơn, tương lai đầy sáng lạng hơn, tương lai rực rỡ hơn, tương lai huy hoàng hơn.
Anh em trẻ là người quyết định tương lai, nên tôi theo lời khuyên của anh em trẻ mà tìm đường về tương lai.
Người Thầy với Dạy và Học
Hoàng Kim
Để
chấn hưng giáo dục đại học Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những
người Thầy ưu tú có tâm đức, thiết tha với nghề, có trình độ chuyên môn
cao và kỹ năng giảng dạy tốt. Nâng cao chất lượng người Thầy là yếu tố cần
hoàn thiện trước tiên, kế đó là nâng cao chất lượng học viên. Sự đột
phá cần nhắm thẳng vào ba việc chính, đồng bộ và đồng thời: 1) tuyển
chọn, đào tạo, thu hút và trọng dụng Thầy tốt, rà soát tổ chức, quy
hoạch nhân sự, đầu tư đồng bộ và hiệu quả cho một số đơn vị giảng dạy
nghiên cứu trọng điểm phù hợp với định hướng chiến lược quốc gia và sát
với thị trường lao động, tập trung vào những vấn đề đất nước, vùng miền
và cơ sở giảng dạy nghiên cứu có lợi thế so sánh; 2) cải tiến phương
pháp dạy và học theo hướng “dạy và học tương tác”“học để làm”(learning
by doing) cải tiến chương trình giảng dạy, xây dựng giáo trình chất
lượng, sát thực tiễn, ứng dụng công nghệ tin học và
E-Learning vào dạy và học, bám sát và giải quyết những yêu cầu thực tiễn
cấp bách của sản xuất đời sống; 3) quy hoạch, cải tạo, nâng cấp trọng
điểm môi trường dạy và học để giáo dục và khoa học công nghệ thực sự trở
thành quốc sách hàng đầu. Nhiệm vụ dạy học là “dạy thái độ, dạy phương pháp, dạy nghề”. Trong đó, dạy phương pháp là quan trọng và cơ bản nhất ở trường
đại học để phát triển trí tuệ sinh viên, thúc đẩy tư duy sáng tạo và
năng lực hoạt động thực tiễn. Mục đích sau cùng của DẠY và HỌC là thấu
suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được việc.
1. SỰ CẤP THIẾT CHẤN HƯNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM
Giáo
dục - đào tạo đóng vai trò chủ yếu trong việc giữ gìn, kế thừa và phát
triển những giá trị thành tựu của nền văn minh nhân loại. Trong thời đại
cách mạng khoa học công nghệ ngày nay, tri thức trở thành động lực
chính của sự tăng tốc phát triển. Giáo dục - đào tạo được coi là nhân tố
quyết định sự thành bại của mỗi quốc gia trên trường quốc tế và sự
thành đạt của mỗi thành viên trong cuộc sống. Giáo dục đại học là
tác nhân hiêụ quả, chủ đạo và trực tiếp giúp Nhà nước hoạch định chính
sách phát triển khoa học, kinh tế, xã hội. Chất lượng giáo dục đại học
là tấm gương thần kỳ để nhìn vào đó hiểu tương lai dân tộc sẽ đi về đâu.
Đất nước phát triển là dựa vào công lớn học tập, lao động sáng tạo của
nguồn lao động trẻ. Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu. Vấn đề then
chốt trong chính sách quốc gia là chăm lo giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng
và sử dụng hiệu quả nguồn lực khoa học công nghệ.
Qua
hai mươi lăm năm đổi mới (1986-2011), giáo dục đại học nước ta đã phát
triển rõ rệt về quy mô, đa dạng về loại hình và phương thức đào tạo. Bài
“Thực trạng giáo dục và những kiến nghị” của giáo sư Nguyễn Lân Dũng đã
trích dẫn “Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020 (Ban hành kèm theo
Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13 tháng 6 năm 2012 của Thủ Tướng Chính
Phủ)”cho thấy:
“Nhìn lại trong10 năm qua (2001 - 2010),
quy mô đào tạo nghề đã tăng 3,08 lần, trung cấp chuyên nghiệp tăng 2,69
lần; quy mô giáo dục đại học tăng 2,35 lần. Năm 2010, số sinh viên cao
đẳng và đại học trên một vạn dân đạt 227; tỷ lệ lao động đã qua đào tạo
đạt 40%, bước đầu đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động. Đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tăng nhanh về số lượng, nâng dần về
chất lượng, từng bước khắc phục một phần bất hợp lý về cơ cấu, đáp ứng
yêu cầu phổ cập giáo dục và phát triển các cấp học và trình độ đào tạo.
Trong 10 năm qua, tỷ trọng quy mô đào tạo ngoài công lập trong tổng quy
mô đào tạo tăng: sơ cấp nghề tăng từ 28%5 lên 44%, trung cấp và cao đẳng
nghề tăng từ 1,5% lên 5,5%, trung cấp chuyên nghiệp tăng từ 5,6% lên
27,2%, cao đẳng tăng từ 7,9% lên 19,9%, đại học tăng từ 12,2% lên 13,2%.
Cơ sở vật chất nhà trường được cải thiện. Tỷ lệ phòng học kiên cố tăng
từ 52% năm 2006 lên 71% năm 2010. Nhà công vụ cho giáo viên và ký túc xá
cho học sinh, sinh viên đã được ưu tiên đầu tư xây dựng và tăng dần
trong những năm gần đây. Trong 10 năm qua, những thành tựu của giáo dục
nước ta đã đóng góp quan trọng trong việc nâng cao dân trí, phát triển
nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển kinh tế - xã hội, giữ
vững an ninh chính trị, tạo điều kiện cho đất nước tham gia vào quá
trình hội nhập quốc tế.”
Tuy
vậy, những thành tựu nói trên của giáo dục đại học Việt Nam là chưa
vững chắc, chưa mang tính hệ thống và cơ bản, chưa đáp ứng được những
đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước và nhu cầu
học tập của nhân dân. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã phát biểu: "giáo
dục và đào tạo nước ta vẫn còn những bất cập, yếu kém, chất lượng giáo
dục chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa thực sự gắn với nhu cầu của xã hội.
Giáo dục kiến thức về xã hội, kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin, trình
độ ngoại ngữ, kỹ năng thực hành còn kém, chưa phát huy khả năng tự học,
tính chủ động, sáng tạo của người học; việc tham gia vào các hoạt động
xã hội của học sinh, sinh viên còn nhiều hạn chế…" Nhiều trí thức
tâm huyết đã cảnh báo rằng, nếu tới đây giáo dục tiếp tục không thành
công thì đó sẽ là điều bất hạnh lớn cho dân tộc, vì không ai lường hết
được hậu quả của nó đối với mọi mặt đời sống của đất nước khi hội nhập.
Chấn hưng giáo dục là mệnh lệnh của cuộc sống.
Sự đảm bảo nguồn nhân lực khoa học công nghệ có cơ cấu và chất lượng
phù hợp với yêu cầu thị trường lao động và đủ khả năng tiếp cận với nền
khoa học và công nghệ tiên tiến có ý nghĩa quyết định đối với sự thành
công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong xu thế
toàn cầu hoá, mối quan hệ kinh tế ngày càng gia tăng, nhiều công ty đa
quốc gia ra đời, hình thành một nền kinh tế không biên giới, tạo áp lực
hợp tác và cạnh tranh toàn cầu. Mối giao lưu văn hoá tăng rất nhanh, các
phương tiện truyền thông, mạng viễn thông, internet đã cải biến xã hội
một cách sâu sắc, “đưa thế giới vào mỗi gia đình”. Mối liên hệ hợp tác
về đào tạo, nghiên cứu đã phá vỡ các phương thức giảng dạy truyền thống
để thay thế bằng những phương pháp giáo dục – đào tạo kiểu mới theo tư
duy năng động hơn và hiệu qủa hơn gấp bội.
“Đổi mới cơ bản và toàn diện Giáo dục Đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020” là mối quan tâm hàng đầu của toàn xã hội. Lý do vì: “giáo dục đại học là hệ thống máy cái của khoa học công nghệ và nền kinh tế quốc dân, là nhân tố quyết định sự thành bại của mỗi quốc gia”; “sự
tụt hậu của đại học nước ta so với thế giới là nghiêm trọng hơn nhiều
so với giáo dục phổ thông” Nền giáo dục của chúng ta không chỉ lạc hậu
mà còn nhiều điểm hạn chế thiên về dạy kiến thức , nhẹ về giáo dục bồi
dưỡng nhân cách” “cần cấp bách chuyển giáo dục đại học theo hướng hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế” (giáo sư Hoàng Tụy, 2006, 2012 ).“ khi có
được cách giảng dạy và học mới thì có thể đào tạo cấp tốc
nhân sự cho đại học kiểu mới theo một giáo trình mới”; “cần
phải thay đổi ngay từ cách đào tạo giáo viên ở các trường sư
phạm vì nếu không làm được việc đó thì mọi sửa đổi ở các
đại học chuyên môn khác đều không có tác dụng (Giáo sư Võ Tòng
Xuân, 2006); Chưa bao giờ nhiệm vụ chấn hưng giáo dục, nâng cao chất
lượng giáo dục đại học cần thiết và cấp bách như hiện nay (Nguyên Phó
Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Bình 2012, Nhà văn Nguyên Ngọc 2012, giáo sư Chu Hảo 2012)
2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC.
2.1. Những biến đổi lớn về giáo dục của nước ta
Thế kỷ 20 đã chứng kiến những biến đổi sâu sắc, to lớn của giáo dục đại học Việt Nam. Năm
1919 với khoa thi cuối cùng thời phong kiến Việt Nam đã khép lại Cựu
học, khởi đầu Tân học, hướng về chân trời tri thức phương Tây. Mẫu
trí thức cũ của các chế độ phong kiến trước đây ở Việt Nam là “học để
làm quan”. Thi cử là để chọn người vào làm quan trong bộ máy hành chính.
Văn Miếu – Quốc Tử Giám là trường đại học đầu tiên của nước ta được xây dựng năm 1070, đời vua Lý Thánh Tông, đến đời nhà Nguyễn, Quốc Tử giám lập tại Huế. Đây là cơ sở đào tạo và giáo dục cao cấp của triều đình. Việc dạy và học trọng tâm là kinh sách “thánh hiền”, kế sách “trị quốc, an dân”, “dạy làm người, dạy đối nhân xử thế” mà xem nhẹ việc học khoa học, kỹ thuật, công nghệ. Mẫu trí thức mới của nửa đầu thế kỷ 20 ở nước ta đã đào tạo chuyên ngành hành chính, bác sĩ, canh nông, kỹ sư, họa sĩ, kiến trúc sư để làm lực lượng lao động tự do,
tuy hình thành nhưng chưa cố kết bền chắc. Những năm cuối của thế kỷ 20
đến những năm đầu thế kỷ 21, xã hội Việt Nam và giáo dục đại học Việt
Nam đứng trước những biến động sâu sắc chưa từng thấy của phong
trào Duy Tân, cách mạng tháng Tám, 30 năm chiến tranh giải phóng, 10
năm khôi phục kinh tế sau chiến tranh, 20 năm đổi mới. Đây là những biến đổi sâu sắc, to lớn tác động toàn diện đến nền giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục đại học nói riêng.
Trường
Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh là cầu nối gia đình nông nghiệp
trước và sau giải phóng Việt Nam hoàn toàn thống nhất. Trường là một
trong hai trọng điểm quốc gia đào tạo nguồn lực nông nghiệp cho cả nước
cùng với Đại học Nông nghiệp Hà Nội. Trên nửa thế kỷ thành lập
(1955-2012), Trường đã trãi qua bảy lần thay tên, nhưng tên Trường vẫn
luôn giữ cái cội nguồn lúc mới thành lập, đó là cái gốc nông nghiệp
trong danh xưng. Tư liệu lịch sử “Trường tôi và lòng thương yêu gửi lại
của thầy Lưu Trọng Hiếu” là bài học rất quý của Trường giúp ta xâu chuỗi những biến đổi lớn lao về giáo dục đại học trước và sau ngày Việt Nam thống nhất để soi sáng những giải pháp chính cho sự hội nhập và phát triển.
Nghề
nông làm gốc “Dĩ nông vi bản” là biểu tượng của ngôi trường chữ U. Kiến
trúc sư Ngô Viết Thụ cho rằng bốn giải pháp chính chấn hưng nước Việt:
đầu tiên phải tác động trực tiếp vào đội ngũ lãnh đạo cao nhất của đất
nước với biểu tượng chữ T của Dinh Độc Lập, kế đến phải là chú trọng
kinh tế “phi thương bất phú” không buôn bán thì chẳng thể làm giàu với
biểu tượng chữ H của Chợ Đà Lạt, tiếp theo phải là quan tâm nông nghiệp
với biểu tượng chữ U của Trường Canh Nông, nối kết với chỉnh đốn pháp
luật biểu tượng bằng con dấu pháp lý của kiến trúc Hồ Con Rùa. Theo ông
Thụ, đó là vương đạo Quốc gia.
Giáo sư Tôn Thất Trình tuy bận trọng trách hai lần giữ chức Tổng Trưởng Bộ Canh Nông và Cải Cách Điền Địa của chính phủ Sài Gòn năm 1967 và 1973 nhưng thầy vẫn làm Giảng sư và Hiệu trưởng của Trường. Sau ngày Việt Nam thống nhất, thầy Tôn Thất Trình làm chánh chuyên viên, tổng thư ký Ủy Ban Lúa Gạo Quốc Tế của FAO (Rome) tiếp tục đóng góp hiệu quả cho nông nghiệp Việt Nam. Bài viết “Thầy bạn là lộc xuận cuộc đời” đã ghi lại. Việc ghi chép tỷ mỷ quá trình thành lập Trường, cách tổ chức ban giảng huấn và sự phát triển nguồn nhân lực Đại Học Nông Lâm trong hai mươi năm đầu và hơn ba mươi năm sau ở “Trường tôi và lòng thương yêu gửi lại của thầy Lưu Trọng Hiếu” là bài học lịch sử cho sự nghiên cứu phát triển.
2.2 Chất lượng dạy học đại học ở Việt Nam
Đánh giá chất lượng dạy học đại học Việt Nam
hiện có nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Một cách khái
quát là giáo dục đại học Việt Nam đã làm đươc nhiều việc nhưng chưa
theo kịp được so với yêu cầu như đã đề cập ở phần đầu. Đánh
giá chất lượng dạy học đại học Việt Nam phải đặt lại câu hỏi sản phẩm
chúng ta cần đào tạo ra là gì? Những thanh niên đó cần đáp ứng những yêu
cầu như thế nào? Bà Tôn Nữ Thị Ninh đã lấy một ví dụ quan sát sinh viên Học viện Quan hệ Quốc tế là nơi mà bà có quen biết nhiều, khi họ chỉ cầm hai, ba
cuốn sách trong tay phải đọc trong vòng mấy ngày là họ cảm thấy rất mệt
mỏi và hoảng hốt, trong khi sinh viên ở Mỹ thì người ta giao cho mấy
chục quyển sách trong một tuần là chuyện rất bình thường. Bà cho rằng,
vấn đề đặt ra là đọc như thế nào chứ đâu phải là đọc từng trang một của
mấy chục quyển sách đó. Sinh viên của chúng ta ít biết cần phải học như
thế nào, đáp ứng những tiêu chuẩn gì mà chỉ tập trung hoàn thành một số
kiến thức rất cố định. Đây là vấn
đề bức xúc vì cải cách giáo dục đại học nước ta đang diễn ra trong bối
cảnh hội nhập toàn cầu hoá và sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ
thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ
vật liệu mới. Thị trường lao động chuyển biến rất lớn. Cần một cuộc cách mạng đau đớn, quyết liệt trong đào tạo và sử dụng trí thức. Trí thức thực là trí thức - cán bộ thực là cán bộ, ai vào việc nấy, độc lập sáng tạo mới mong kinh tế, văn hóa nước nhà thực sự cất cánh bền vững. Vấn đề cấp bách của giáo dục đại học hiện nay là chất lượng sinh viên sau khi ra trường chưa đáp ứng kịp nhu cầu thị trường công việc trong nước và cạnh tranh quốc tế. Nhà
trường chúng ta đang dạy những cái mà giáo viên có, xây dựng những
chương trình giảng dạy nghiên cứu trên căn bản những điều mà thầy cô đã
được đào tạo và có kinh nghiệm. Lực lượng giảng viên đại học chưa theo
kịp với yêu cầu cấp bách của sản xuất đời sống.
2.3 Giải pháp nâng cao chất lượng dạy học đại học
Theo
ý kiến của TS. Huỳnh Công Minh 2012, sự cấp thiết phải đổi mới toàn
diện, đồng thời và đồng bộ: mục tiêu giáo dục, nội dung chương trình,
phương pháp dạy học, phương thức đánh giá, cơ chế quản lý và thiết chế
tổ chức nhà trường.
Mục tiêu giáo dục
phải đổi mới mạnh mẽ từ con người khoa bảng thành con người thực tế; từ
mục tiêu nhồi nhét kiến thức hàn lâm chuyển thành năng lực làm chủ cuộc
sống; từ cơ chế độc quyền với từng hoạt động đơn lẻ chuyển sang phục vụ
xã hội đa dạng, cạnh tranh với tinh thần hợp tác, thân thiện.
Nội dung chương trình
phải đổi mới từ phân hóa theo môn học thành tích hợp theo mục tiêu đào
tạo; giảm lý thuyết từ chương, tăng cường thực tế; đổi mới mạnh mẽ từ
nhà trường khép kín, gò bó sang giáo dục xã hội, mở rộng cửa trường đưa
nhà trường thâm nhập vào cuộc sống.
Phương pháp dạy học
phải đổi mới từ dạy số đông sang dạy cá thể, dạy cách học; đổi mới từ
dạy áp đặt một chiều của người dạy sang tương tác đa chiều của người học
với thầy cô, bạn bè, sách vở, trong gia đình và ngoài xã hội; không
dừng lại ở lý thuyết, minh họa mà vươn tới hoạt động thực hành, trải
nghiệm, làm sinh động và hiệu quả hơn nội dung giáo dục để đạt yêu cầu
mục tiêu giáo dục tốt nhất; làm cho học sinh thích thú, chủ động và tích
cực tự tìm tòi, nâng cao năng lực tự học, học suốt đời, học mọi lúc mọi
nơi.
Đánh giá quá trình dạy học vừa mang tính công nhận nhưng quan trọng hơn còn có tác dụng định hướng giáo dục rất hữu hiệu – “Thi cử thế nào, thầy và trò dạy và học như thế ấy!” Phải đổi mới mạnh mẽ hoạt động đánh giá, coi trọng đánh giá của giáo viên ngay trong quá trình dạy học, đây là hoạt động chủ yếu thay vì tập trung thi cử cuối khóa nặng nề, đối phó, hình thức, thiếu thực chất thoát ly mục tiêu đào tạo. Phải tạo điều kiện cho người học tự đánh giá để tự hoàn thiện mình, phải phối hợp với phụ huynh đánh giá học sinh để tạo sự thống nhất hệ thống giá trị giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
Đánh giá quá trình dạy học vừa mang tính công nhận nhưng quan trọng hơn còn có tác dụng định hướng giáo dục rất hữu hiệu – “Thi cử thế nào, thầy và trò dạy và học như thế ấy!” Phải đổi mới mạnh mẽ hoạt động đánh giá, coi trọng đánh giá của giáo viên ngay trong quá trình dạy học, đây là hoạt động chủ yếu thay vì tập trung thi cử cuối khóa nặng nề, đối phó, hình thức, thiếu thực chất thoát ly mục tiêu đào tạo. Phải tạo điều kiện cho người học tự đánh giá để tự hoàn thiện mình, phải phối hợp với phụ huynh đánh giá học sinh để tạo sự thống nhất hệ thống giá trị giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
Cơ chế tổ chức quản lý,
phải đổi mới mạnh mẽ từ quan liêu bao cấp sang cơ chế tự chủ nhà
trường, không chờ đợi, ỷ lại vào cấp trên mà phải tạo điều kiện cho từng
giáo viên sáng tạo, tự giác chấp hành luật pháp, thực hiện quy chế với ý
thức tổ chức kỷ luật cao, đồng thời chủ động thể hiện từng động tác
giáo dục phù hợp và hiệu quả với từng học sinh trong quá trình dạy học
như những nhà giáo dục thực thụ.
Thiết chế tổ chức nhà trường
phải đổi mới phù hợp với quan điểm đổi mới, giảm sỉ số trong lớp từ 35,
45 học sinh xuống còn 20, 30 học sinh; học sinh học tập và hoạt động cả
ngày trong trường (2 buổi/ngày); giáo viên phải có chế độ làm việc cả
ngày (8 giờ) theo đúng quy trình lao động của ngành nghề, nghiên cứu tài
liệu, tiếp cận học sinh, nắm chắc tâm sinh lý lứa tuổi, hoàn cảnh, soạn
bài, giảng bài, ra bài tập kiểm tra, chấm bài, chữa bài, đánh giá nhận
xét từng học sinh chu đáo, đúng mực…thay vì chỉ đến trường theo giờ dạy,
vì lao động của nhà giáo là lao động cao cấp, phức tạp, khác với các
ngành nghề lao động giản đơn.
3. NGƯỜI THẦY VỚI VIỆC DẠY VÀ HỌC
3.1 Vinh quang nghề Thầy và sự dấn thân
Người Thầy luôn ở vị trí trung tâm trong lịch sử văn hoá dân tộc Việt. Nước ta là một nước văn hiến “tôn sư, trọng đạo”. Người Việt hiếu học và có nhiều người Thầy tiêu biểu như Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Thiếp, Phan Chu Trinh, Nguyễn Hiến Lê, … Đó là những nhà giáo, nhà văn hoá bản lĩnh, tiết tháo “giàu sang không ham muốn, nghèo đói không thay lòng, uy vũ không khuất phục”, những gương danh nhân soi sáng muôn đời. Trong
thời đại ngày nay và điều kiện Việt Nam, việc nhận thức sâu sắc vinh
quang nghề Thầy và chấp nhận sự dấn thân “học không biết mệt, dạy không
biết mỏi” để xứng đáng với danh xưng người Thầy là đặc biệt quan trong
cho sự nghiệp đào tạo nhân tài và chấn hưng giáo dục.
Thầy tốt “lương sư hưng quốc” là nhân tố quyết định chất lượng và hiệu quả giáo dục trong nhà trường hiện đại. Ngày nay, một số ý kiến cho rằng vai trò người Thầy đã thay đổi, vì : 1)
Vai trò của người học ngày càng chủ động, sáng tạo hơn, không còn phụ
thuộc vào một chương trình học, kiến thức cố định, giáo trình, giáo án
có sẵn. 2) Hàng loạt phương tiện kỹ thuật công nghệ thông tin ra đời hỗ trợ đắc lực cho việc học; 3) Một số người dạy không đạt chuẩn vì phải lo việc mưu sinh trong thời kinh tế thị trường. 4) Danh xưng “người Thầy” đã bị lạm dụng, không chỉ là người “đức cao, học rộng, trực tiếp giảng dạy” như trước đây (mà phạm vi sử dụng của từ “Thầy”
nay đã mở rộng đến giới chức quản lý, giới chức văn hoá, văn nghệ sỹ,
nhiếp ảnh, hoạ sĩ, nhạc sỹ, báo chí, phát thanh, truyền hình, người chủ
trì hội chợ triển lãm, giám đốc phòng tranh,…). Trong bối cảnh đó, J.
Hattie, chuyên gia giáo dục, đã dựa trên những dữ liệu nghiên cứu của
hơn 50 triệu học sinh thuộc mọi lứa tuổi và nhiều lĩnh vực với mục đích
nhằm xác định nhân tố chính quyết định chất lượng và hiệu quả giáo dục trong nhà trường hiện đại. Bà đã đi đến kết luận là: Ngay
cả trong nhà trường hiện đại, với sự hỗ trợ mạnh mẽ của công nghệ thông
tin, thì vai trò quyết định nhất đối với chất lượng giáo dục vẫn thuộc
về các yếu tố liên quan trực tiếp tới người Thầy (J.Hattie, 2005, 2006).
Nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả khác ở trên thế giới (trích
dẫn bởi Christopher D. Sessums, 2006) và Việt Nam (TS. Nguyễn Thị Bích Hạnh, 2006) đều thống nhất với nhận định trên.
3.2. Chất lượng người Thầy trong tình hình mới
Để
chấn hưng giáo dục đại học Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những
người thầy giáo ưu tú có tâm đức, thiết tha với nghề, có trình độ chuyên
môn cao và kỹ năng giảng dạy tốt. Nâng cao chất lượng người Thầy là yếu
tố cần hoàn thiện trước tiên kế đó là nâng cao chất lượng học viên. Sự
đột phá cần nhắm thẳng vào ba việc chính, đồng bộ và liên hoàn: 1) tuyển
chọn, đào tạo, thu hút và trọng dụng thầy tốt, rà soát tổ chức, quy
hoạch nhân sự, đầu tư đồng bộ và hiệu quả cho một số đơn vị giảng dạy
nghiên cứu trọng điểm phù hợp với định hướng chiến lược quốc gia và sâu
sát với thị trường lao động, tập trung vào những vấn đề đất nước, vùng
miền và cơ sở giảng dạy nghiên cứu có lợi thế so sánh; 2) cải tiến
phương pháp dạy và học theo hướng “dạy và học tương tác” “học để làm”
(learning by doing) cải tiến chương trình giảng dạy, xây dựng giáo trình
chất lượng, sát thực tiễn, ứng dụng công nghệ tin học và
E-Learning vào dạy và học, bám sát và giải quyết những yêu cầu thực tiễn
cấp bách của sản xuất đời sống; 3) quy hoạch, cải tạo, nâng cấp trọng
điểm môi trường dạy và học để giáo dục và khoa học công nghệ thực sự trở
thành quốc sách hàng đầu. Rèn nhân cách, nâng chuyên môn, luyện kỹ năng là ba khâu thiết yếu của người Thầy.
Nhiệm vụ dạy học là “dạy thái độ, dạy phương pháp, dạy nghề”. Trong đó, dạy phương pháp là quan trọng và cơ bản nhất ở trường đại học để phát triển trí tuệ của sinh viên, thúc đẩy việc giáo dục tư duy sáng tạo và năng lực hoạt động thực tiễn. Trường đại học là nơi đào tạo tập trung nguồn nhân lực chất lượng cao cho nhu cầu xã hội. Trong điều kiện bùng nổ thông tin, khoa học công nghệ phát triển thì kiến thức sinh viên tự học được từ gia đình, xã hội và truyền thông phong phú hơn những tri thức họ tiếp thu được từ bài giảng. Cho nên việc dạy thái độ ứng xử, phương pháp tìm tòi, cách hệ thống hóa tri thức, năng lực tư duy sáng tạo và hoạt động thực tiễn là rất quan trọng và cơ bản nhất trong dạy và học đại học. Chừng nào mỗi chúng ta chưa ứa nước mắt thấm hiểu sự nhọc nhằn của người nông dân một nắng hai sương làm ra hạt gạo. Chừng nào những giá trị lao động khoa học cao quý, liên tục, âm thầm chưa mang lại đủ niềm vui cho bữa ăn của người dân nghèo. Chừng đó chúng ta sẽ còn phải DẠY VÀ HỌC. Cái gốc của sự học là HỌC LÀM NGƯỜI. Học ở đâu? Học ở trường, học trong sách vở, học lẫn nhau và học ở dân. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Thước đo lòng trung thành đối với tổ quốc và nhân cách của người trí thức là sự cống hiến đối với sản xuất đời sống và cộng đồng.
3.3 Nâng cao kỹ năng dạy và học
Theo
quan điểm sư phạm học tương tác thì hoạt động dạy học đại học là một hệ
thống tương tác giữa bốn yếu tố: Thầy (Dạy) - Trò (Học) - Nội dung khoa
học - Môi trường dạy học. Thầy và Trò là hai yếu tố động, là quan hệ cơ
bản nhất tạo nên chất lượng của hệ thống dạy và học. Nội dung khoa học
và môi trường dạy học là hai yếu tố tĩnh chi phối sâu sắc chất lượng và
hiệu qủa của dạy và học. Muốn đạt được sự biến đổi về chất lượng và hiệu
qủa giảng dạy đại học đòi hỏi phải tác động đồng bộ vào bốn yếu tố cấu
trúc cơ bản này.
Hoạt động dạy của thầy và học của trò là hai thành tố trung tâm trong sự tương tác dạy và học. Thầy dạy tốt là yếu tố chủ đạo thúc đẩy cho việc trò học tốt. Thầy là người thiết kế và lựa chọn nội dung dạy, giới thiệu các nguồn tài nguyên phục vụ cho hoạt động học. Thầy cũng là người tạo nên động cơ, hứng thú của người học, mở đầu và kết thúc cho một quy trình dạy học. Trò học giỏi đến lượt mình lại đặt người Thầy vào trong mối quan hệ dạy và học tương tác, thúc đẩy người Thầy tiếp tục cải tiến phương pháp để phát huy cao độ tính chủ động và sáng tạo của người học, phát triển tư duy sáng tạo và năng lực hoạt động thực tiễn của sinh viên.
Hoạt động dạy của thầy và học của trò là hai thành tố trung tâm trong sự tương tác dạy và học. Thầy dạy tốt là yếu tố chủ đạo thúc đẩy cho việc trò học tốt. Thầy là người thiết kế và lựa chọn nội dung dạy, giới thiệu các nguồn tài nguyên phục vụ cho hoạt động học. Thầy cũng là người tạo nên động cơ, hứng thú của người học, mở đầu và kết thúc cho một quy trình dạy học. Trò học giỏi đến lượt mình lại đặt người Thầy vào trong mối quan hệ dạy và học tương tác, thúc đẩy người Thầy tiếp tục cải tiến phương pháp để phát huy cao độ tính chủ động và sáng tạo của người học, phát triển tư duy sáng tạo và năng lực hoạt động thực tiễn của sinh viên.
Người
Thầy và phương pháp dạy học đại học là nhân tố đặc biệt quan trọng để
hướng dẫn sinh viên tự học và tự nghiên cứu: 1) Hướng dẫn nhu cầu, động
cơ học tập của sinh viên để thực hiện việc học một cách tự giác, làm
phong phú thêm sự hiểu biết và hoàn thiện nhân cách bản thân; 2) Khích
lệ sinh viên tích cực, độc lập, sáng tạo cao trong tổ chức và tự điều
khiển hoạt động tự học phù hợp với khả năng và điều kiện của người học,
đồng thời đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ học tập do hoạt động dạy học đặt ra;
3) Biểu dương sự nỗ lực ý chí cao của sinh viên biểu lộ trong việc kiên
trì khắc phục mọi khó khăn để đạt đến đích sau cùng
của việc học; 4) Thường xuyên đánh giá kiểm tra, điều chỉnh hoạt động
tự học và nghiên cứu của sinh viên để đạt được việc học một cách tự
giác, tích cực, độc lập và sáng tạo; 5) Khơi dậy và phát triển khả năng
học và tự học của sinh viên, phát huy cả bốn yếu tố tạo thành hoạt động
tự học (TS. Nguyễn Thị Bích Hạnh 2006). Nổ lực ứng dụng hiệu quả phương pháp dạy và học mới: 1) Nâng cao năng lực tự học tự nghiên cứu của sinh viên, kỹ năng thực hành, làm việc nhóm, tìm kiếm và xử lý thông tin, trình bày, thảo luận, phát triển tư duy sáng tạo; 2) Tăng cường vai trò giảng viên đối với tự học, rèn luyện kỹ năng và phát triển tư duy sáng tạo của sinh viên; 3) Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học và đào tạo, tăng cường mối liên kết giữa đào tạo và nghiên cứu khoa học; 4) Triển khai hiệu quả phương thức đào tạo theo tín chỉ.
Người
Thầy với đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, sự tâm huyết và phong cách của
mình đã ảnh hưởng trực tiếp và nêu gương sáng cho người học. Sức cảm
hoá của người Thầy vượt lên nhiều điều muốn nói. Tục
ngữ Việt Nam có câu: “Không Thầy đố mầy làm nên!” Câu nói này là sự
trãi nghiệm lâu dài của một dân tộc, của một nền văn hoá lớn.
4. KẾT LUẬN
Bốn
yếu tố cần nâng cao chất lượng trong dạy và học đại học là: Thầy (Dạy) -
Trò (Học) - Nội dung khoa học - Môi trường dạy học. Hệ thống giải pháp
đồng bộ, toàn diện, đồng thời để nâng cao chất lượng người Thầy và đổi
mới phương pháp giảng dạy là yếu tố cần hoàn thiện đầu tiên. Học và tự
học của sinh viên có mối quan hệ rất chặt chẽ tạo nên chất lượng của hệ
thống dạy và học; môi trường dạy học và nội dung khoa học là hai yếu tố
chi phối sâu sắc đến chất lượng và hiệu qủa của dạy và học.
Để
chấn hưng giáo dục đại học Việt Nam cấp thiết phải có đội ngũ những
người thầy giáo ưu tú có tâm đức, thiết tha với nghề, có trình độ chuyên
môn cao và kỹ năng giảng dạy tốt. Nhiệm vụ dạy học là dạy thái độ, dạy
phương pháp, dạy nghề, trong đó nhiệm vụ quan trọng và cơ bản nhất của
người Thầy là dạy phương pháp phát triển trí tuệ cho sinh viên, giáo dục
tư duy sáng tạo và năng lực hoạt động thực tiễn. Mục đích sau cùng của
DẠY và HỌC là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và LÀM được
việc.
Ba giải pháp chính để nâng cao chất lượng dạy học đại học là: 1)
tuyển chọn, đào tạo, thu hút và trọng dụng thầy tốt, rà soát tổ chức,
quy hoạch nhân sự, đầu tư đồng bộ và hiệu quả cho một số đơn vị giảng
dạy nghiên cứu trọng điểm phù hợp với định hướng chiến lược quốc gia và
sâu sát với thị trường lao động, tập trung vào những vấn đề đất nước,
vùng miền và cơ sở giảng dạy nghiên cứu có lợi thế so sánh; 2) cải tiến
phương pháp dạy và học theo hướng “dạy và học tương tác” “học để làm”
(learning by doing) cải tiến chương trình giảng dạy, xây dựng giáo trình
chất lượng, sát thực tiễn, ứng dụng công nghệ tin học và
E-Learning vào dạy và học, bám sát và giải quyết những yêu cầu thực tiễn
cấp bách của sản xuất đời sống; 3) quy hoạch, cải tạo, nâng cấp trọng
điểm môi trường dạy và học để giáo dục và khoa học công nghệ thực sự trở
thành quốc sách hàng đầu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Ban Quản lý Dự án Giáo dục Việt Nam Hà Lan, 2011. Giáo dục đại học theo định hướng chuyên ngành tại các trường đại học của Việt Nam, Tài liệu dự án được xuất bản với sự hổ trợ từ Chính phủ Hà Lan, 24 trang.
2) Nguyễn Thị Bình 2012: Giáo dục Việt Nam đi ngược quy luật Báo Điện tử Giáo dục.net 29/09/2012 http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Nguyen-PCT-nuoc-Nguyen-Thi-Binh-Giao-duc- Viet-Nam-di-nguoc-quy-luat/231324.gd
3) Chính Phủ 2012. Chiến lược phát triển giáo dục 2011- 2020 (Ban hành kèm theo Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13 tháng 6 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ)
4) Chính phủ 2003: Điều lệ trường Đại học. Ban hành theo Quyết định số 153/2003/QĐ-TTg ngày 30/7/2003 của Thủ tướng Chính phủ. 28 trang.
5) Nguyễn Lân Dũng 2012. Thực trạng giáo dục và những kiến nghị, blog HỌC MỖI NGÀY http://hocmoingay.blogspot.com/2012/10/thuc-trang-giao-duc-va-nhung-kien-nghi.html
6) Chu Hảo 2012. Chúng ta đang ở đâu trong thế giới này? Báo Điện tử Lifetv.vn 19/11/2012 http://lifetv.vn/news-view/gs-chu-hao-chung-ta-dang-o-dau-trong-the-gioi-nay
7) Hoàng Kim 2009. Trường tôi và lòng thương yêu gửi lại của thầy Lưu Trọng Hiếu
8) Hoàng Kim 2010. Thầy, bạn là lộc xuân của cuộc đời Blog Hoàng Kim http://hoangkimlong.blogspot.com/2010/11/thay-ban-la-loc-xuan-cua-cuoc-oi.html
9) Huỳnh Công Minh 2012. Kỳ vọng và thất vọng về giáo dục. Báo Điện tử Giáo dục.net 2.10.2012 http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Ky-vong-va-that-vong-ve-giao-duc-Nguyen-GD-so-GD-TPHCM-len-tieng/232257.gd
10) Nguyên Ngọc 2012: Cần phản tư về nguyên nhân gốc của sự suy thoái văn hóa và giáo dục. Báo Điện tử Văn hóa Nghệ An 3.9.2012 http://vanhoanghean.vn/nhung-goc-nhin-van-hoa/goc-nhin-van-hoa/4991-nha-van-nguyen-ngoc-can-phan-tu-ve-nguyen-nhan-goc-cua-su-suy-thoai-van-hoa-va-giao-duc-.html
11) Hoàng Tụy 2012. “Căn bệnh" tàn phá giáo dục Việt Nam. Báo Điện tử Giáo dục.net 12.11.2012 http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/GS-Hoang-Tuy-chi-dich-danh-can-benh-tan-pha-giao-duc-Viet-Nam/248803.gd
12) Hoàng Tụy 2012. Giáo dục đang đứng ở ngã ba đường Báo Điện tử Giáo dục.net 21.10.2012 http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/GS-Hoang-Tuy-Giao-duc-dang-dung-o-nga-ba-duong/239846.gd
13) Hoàng Tụy 2012: Nền giáo dục còn nhiều hạn chế Báo Điện tử Dân Trí http://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/gs-hoang-tuy-nen-giao-duc-con-nhieu-han-che-646183.htm
14) Hoàng Tụy 2012: Thay đổi tư duy giáo dục Báo Điện tử Viet-Studies.info http://www.viet-studies.info/HoangTuy_TuDuyGiaoDuc.htm
15) Văn kiện Đảng Cộng sản Việt Nam 1996. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về
định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000; Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam Ngày 23/12/2003.
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét