DẠY VÀ HỌC báo Văn nghệ, Hà Nội, số 44 ngày 31 tháng 10 năm1987, theo tài liệu sưu tầm của Lại Nguyên Ân và Nguyễn Thị Bình, có bài viết CẦN PHÁT HUY ĐẦY ĐỦ CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA VĂN HỌC NGHỆ THUẬT do Nguyên Ngọc phát biểu tại cuộc gặp gỡ của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với nghệ sĩ, ngày 7 tháng10 năm 1987. Tài liệu đến nay đã 27 năm nhưng vẫn nóng hổi tính thời sự. Cám ơn nhà văn Ngô Minh, quà tặng xứ mưa, đã cung cấp thông tin quý giá này.
CẦN PHÁT HUY ĐẦY ĐỦ CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
Nguyên Ngọc
Kính thưa đồng chí Tổng Bí thư,
Thưa các đồng chí
Từ
sáng hôm qua đến giờ, nhiều đồng chí đã phát biểu rất sâu sắc về những
vấn đề quan trọng. Tôi nhất trí với nhiều ý kiến trong số đó. Vì thời
gian có hạn, tôi xin không nhắc lại những ý kiến đã nhất trí, chỉ nói
thêm về một số vấn đề các đồng chí trước chưa nói, hoặc một số khía cạnh
chưa được nói tới trong các vấn đề các đồng chí trước đã nêu ra.
Tôi
nghĩ trong hai cuộc kháng chiến vừa qua, văn học nghệ thuật ta đã làm
tròn xuất sắc nhiệm vụ của mình. Cùng với các ngành khác, văn học nghệ
thuật đã góp phần xứng đáng tạo nên sức mạnh tổng hợp của dân tộc, của
Đảng để đánh thắng kẻ thù. Từ đó, cùng góp phần quan trọng xây dựng,
phát triển và khẳng định những giá trị tinh thần và đạo đức mới tốt đẹp
cho con người, cho xã hội. Về phần bản thân mình, văn học nghệ thuật ta
cũng đã có một bước trưởng thành lớn về nhiều mặt, trong đó có lẽ đáng
chú ý hơn cả là sự trưởng thành về đội ngũ…
Những
điều này không còn gì phải bàn cãi nhiều. Tuy nhiên mặt khác cũng cần
thấy rõ rằng trong suốt thời kỳ kéo dài hơn 30 năm ấy, văn học nghệ
thuật nước ta đã phát triển trong những điều kiện hết sức khắc nghiệt
của chiến tranh. Cho nên tất yếu có những hạn chế không thể tránh khỏi,
những hạn chế ấy đã để lại những dấu vết hằn sâu. Ví dụ: do điều kiện
chiến tranh, trong văn học nghệ thuật đã thường quen chỉ nói một chiều.
Chỉ nói thắng lợi không nói thất bại; chỉ nói bằng thành tích, không
nói tổn thất; chỉ nói sự đúng đắn, không nói sai lầm… tuy ai cũng biết
rằng mỗi thắng lợi trong cuộc chiến tranh đều đã phải trả giá bằng biết
bao nhiêu tổn thất hy sinh, thất bại và cả sai lầm cay đắng…
Sau
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lật đổ một chế độ xã hội cũ, chúng ta
mong muốn bắt tay xây dựng một xã hội mới tốt đẹp. Nhưng lập tức chúng
ta bước ngay vào chiến tranh chống ngoại xâm, cuộc chiến ấy cực kỳ ác
liệt và kéo dài. Điều kiện chiến tranh buộc chúng ta hầu như lúc nào
cũng phải giải quyết ngay những việc cấp bách nhất, còn những việc lâu
dài, cơ bản thì cứ phải gác lại. Trong công tác tư tưởng cũng vậy. Trong
văn học cũng vậy. Ví dụ như, trong giáo dục, trong văn học nghệ thuật,
suốt mấy mươi năm chúng ta đã nói rất nhiều, rất đậm về tình đồng chí,
quan hệ đồng chí, điều ấy là đúng và tốt quá. Song ta lại chưa kịp, chưa
có thời gian… và cũng quên không nói về một cái sơ đẳng hơn, nhưng cũng
gốc gác hơn của con người là tình bạn… Hoặc chúng ta đã nói nhiều, sâu
về đất nước, về Tổ quốc, về Đảng, về nhân dân, về kẻ thù…, nhưng gần như
đã quên hẳn một thời gian rất dài không nói gì với các cháu bé của
chúng ta về cha mẹ, về gia đình… Trong việc xây dựng tư tưởng, tình cảm,
nhân cách cho con người, chúng ta vừa đạt được những tầm rất cao, lại
vừa có sự hụt hẫng ở một số mặt gốc rễ, cơ bản, lâu bền. Có thể nói
chừng nào đã có xu hướng “thực dụng” ở đây. Đó là một sự phiến diện
không nhỏ.
Điều
kiện khắc nghiệt của chiến tranh cũng dẫn đến khuynh hướng đồng nhất
tất cả với chính trị. Cả giáo dục, cả văn học nghệ thuật, thậm chí cả
những phạm trù khoa học như sử học, đạo đức học, tâm lý học… đều nhất
loạt bị đồng nhất với chính trị.
Cuộc
chiến tranh giải phóng ác liệt đặt lên hàng đầu sự mất còn của toàn dân
tộc. Số phận của toàn dân tộc lấn át hết mọi quan hệ khác. Trong văn
học nghệ thuật điều ấy cũng in dấu rõ: cái chung, cái cộng đồng, cái
toàn dân tộc là quan trọng nhất; cái riêng hầu như chưa được biết đến,
nói đến. Chưa có quyền của cái riêng…
Tất
cả những điều trên đây là dễ hiểu, có tính lịch sử, là đương nhiên của
một “thời kỳ văn học nghệ thuật chiến tranh”. Chỉ có điều, khi chuyển
sang thời kỳ khác, thời kỳ xây dựng hòa bình, tức là trở lại cuộc sống
bình thường, lâu dài, hàng ngày… của một đất nước, một xã hội, nếu chúng
ta không kịp nhận ra và kịp thời khắc phục những hạn chế có tính lịch
sử trước đây, thì những hạn chế đó sẽ trở thành những nhược điểm, thậm
chí những khuyết điểm sai lầm, cản trở sự phát triển của văn học nghệ
thuật.
Tiếc
thay, vừa qua chúng ta đã phạm đúng điều này trong sự lãnh đạo văn học
nghệ thuật. Thật ra, từ gần 10 năm trước đây, có người cũng đã thấy và
chỉ ra. Nhưng liền bị quy chụp là “phủ nhận thành tựu”, là ảnh hưởng đủ
thứ quan điểm tư tưởng sai trái này nọ. Và những ý kiến trăn trở ấy bị
dập đi…
Theo
tôi, chúng ta đã chậm trễ mất khoảng mươi năm. Trong văn học nghệ thuật
mươi năm có thể là cả một thế hệ! Thế mới biết lỗi ở chỗ này không nhỏ.
Đấy là một trong nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo nàn trong văn học nghệ thuật vừa qua như đồng chí Tổng Bí thư nhận xét.
Một
nguyên nhân khác, theo tôi, là đẻ ra từ hệ tư tưởng bao cấp nặng nề
thống trị trong suốt thời gian rất dài, kể cả “bao cấp về tư tưởng”. Có
những thời kỳ dài, tôi xin nói một cách hình ảnh, cứ hàng quý đến kỳ anh
tuyên huấn cấp dưới lại khăn gói lên tuyên huấn cấp trên, lĩnh một ít
tư tưởng do cấp trên cấp phát cho, về để tiêu dùng cho mình và đơn vị
mình trong suốt quý. Hết quý, lại đi lĩnh suất khác. Nếu chẳng may đến
kỳ rồi mà giao thông trắc trở chưa đi lĩnh được suất tư tưởng mới thì
đành lúng túng ngồi chờ vậy, chẳng thể tự mình nghĩ ra được và dám nghĩ
ra cái gì khác. Bởi đã quen: quyền suy nghĩ là quyền của cấp trên!
Tôi e rằng tình trạng này đến nay cũng chưa hết hẳn đâu.
Trong
văn học nghệ thuật, tình trạng này cũng nặng nề. Mãi gần đây, một hôm
tôi được chứng kiến một nhà văn có tên tuổi hẳn hoi và đang giữ một
cương vị khá quan trọng trong bộ máy lãnh đạo văn học ta, lên chỗ Ban
Văn hóa văn nghệ Trung ương của đồng chí Trần Độ, nằng nặc đòi: “Trung
ương phải chỉ đạo cho chúng tôi nên xây là chính hay chống là chính chứ!
Lúc này văn học nên ca ngợi cái tốt là chính hay đấu tranh chống tiêu
cực là chính? Phê bình đấu tranh đến mức nào? Tỷ lệ như thế nào?… Yêu
cầu Ban của Đảng phải chỉ đạo cho chúng tôi!…”. Riêng tôi, hôm ấy, tôi
nghĩ: nếu tự anh không biết được trước cuộc đời hôm nay anh cần ca ngợi
cái gì, đấu tranh chống cái gì, anh yêu ai ghét ai, anh phải yêu như thế
nào và ghét như thế nào… thì anh còn là nhà văn cái nỗi gì!
Quả
thật thói quen chỉ có thể, chỉ được phép suy nghĩ điều cấp trên đã suy
nghĩ, thói quen chỉ được, chỉ dám và chỉ biết suy nghĩ theo phép cấp
trên đã thống trị lâu dài trong xã hội ta. Mọi cái “lạ” đều phải kiêng
kỵ. Tình trạng đó tất nhiên làm khô cằn mọi sự sáng tạo, trước hết là
sáng tạo văn học nghệ thuật.
Anh
Huy Cận có nói những quan niệm thô thiển, hẹp hòi, cứng nhắc trong lãnh
đạo, theo anh, ở các cấp ủy địa phương đã cản trở nhiều sự sáng tạo văn
học nghệ thuật. Tôi nghĩ khác. Ở nước ta hiện nay, số lượng văn nghệ sĩ
làm việc ở trung ương đông hơn ở các địa phương nhiều. Nếu sự thô
thiển, hẹp hòi, cứng nhắc chỉ có ở các cấp ủy địa phương như anh Huy Cận
nói, thì làm sao giải thích tình trạng nghèo nàn hiện nay của văn học
nghệ thuật ta, không chỉ nghèo “ở các địa phương”? Phải tìm ở chỗ khác.
Tôi
nghĩ rằng trong sự lãnh đạo văn học nghệ thuật, chúng ta có sai ở một
số vấn đề quan trọng cơ bản và sai ở ngay trong “hệ chính thống”, chứ
không phải ở bộ phận, ở cục bộ, ở địa phương. Tôi chỉ xin tập trung nói
về một vấn đề theo tôi là nóng bỏng nhất và cũng là vấn đề cơ bản, lâu
dài: Vấn đề chức năng xã hội, hay là vai trò vị trí xã hội của văn học
nghệ thuật.
Nhiều
đồng chí đã nói về các vấn đề cơ chế, chế độ, chính sách, về sự đối xử
với các văn nghệ sĩ v.v… Tôi nghĩ những điều đó đúng, cần nói, cần giải
quyết. Nhưng có lẽ dẫu sao những cái đó cũng chỉ là hệ quả tất yếu của
những cái quan trọng hơn: ấy là quan niệm về chức năng xã hội của văn
học nghệ thuật.
Ở
ta cho đến nay vẫn thống trị hai quan niệm phổ biến về chức năng xã hội
của văn nghệ. Một là văn nghệ minh họa. Chức năng phản ánh của văn nghệ
được hiểu một cách thô thiển. Đại thể là: Đảng và nhân dân đã làm nên
sự nghiệp anh hùng, văn nghệ hãy ghi chép lại đi, để ngợi ca, để cho mọi
người biết, để cho con cháu mai sau hiểu. Hoặc cao hơn một chút nữa,
thì: cuộc đấu tranh xã hội diễn ra phức tạp như thế đấy. Đảng, Nhà nước
đã giải quyết như thế này, thế này… Văn nghệ sĩ hãy theo sát, tìm hiểu
và ghi chép lại, trình bày những bài học Đảng đã rút ra được ở đó, một
cách văn chương, để mọi người dễ tiếp thu, thấm thía… Văn nghệ là đi sâu chính trị. Chính trị giải quyết. Văn nghệ phản ánh…
Quan
niệm thứ hai là: “Văn nghệ xướng ca” (và đương nhiên dẫn đến: “xướng ca
vô loài”!). Đại thể: văn nghệ là một thứ trang trí của xã hội. Khi no
đủ, vui vẻ, gọi văn nghệ đến giải trí, mua vui. Còn khi mệt, bận, cáu
thì văn nghệ liệu mà tránh xa ra, đừng có quấy rầy!…
Vai trò xã hội của văn học nghệ thuật bị hạ thấp. Mọi thái độ đối xử không đúng với nó là bắt nguồn từ đó
Anh
Nguyễn Đăng Mạnh có nói đến sự “bí mật”, sự khó định nghĩa của văn học
nghệ thuật. Quả có thế thật. Cho đến nay có lẽ vẫn chưa hoàn toàn giải
thích sáng rõ được hết tại sao văn học nghệ thuật lại cần thiết đến thế
cho con người, đã có mặt từ khi loài người là loài người, và tồn tại mãi
với nhân loại như một điều kiện của chính sự tồn tại của loài người. Và
hình như xã hội càng tiến lên, đặc biệt ngày nay khi nền văn minh cơ
khí càng phát triển thì nhu cầu nghệ thuật của xã hội, của con người lại
càng cấp thiết, bức bách hơn.
Phải
chăng, trong rất nhiều lý do, có một lý do sâu xa này: nghệ thuật là
một phương thức tồn tại của con người giữ cho con người mãi mãi là con
người, không sa xuống thành con vật mà cũng không thành những ông thánh
vô bổ và vô duyên. Nghệ thuật là sự vươn tới sự hướng về, sự níu giữ mãi
mãi tính người cho con người. Cái cốt lõi của nghệ thuật là tính nhân
đạo.
Có
một thời chúng ta sợ, coi việc nói đến những điều gọi là những “đề tài
vĩnh cửu” của văn học nghệ thuật là tối kiêng kỵ, là “phi giai cấp”, là
“tư sản”, “xét lại”… Song, mặc dù chúng ta kiêng kỵ và lo sợ, những đề
tài như vậy vẫn cứ tồn tại. Có những câu hỏi cứ còn mãi, lặp đi lặp lại
mãi, suốt đường dài của lịch sử con người, như những câu hỏi về sống và
chết, tốt và xấu, thật và giả, thiện và ác, hạnh phúc và đau khổ… Đó là
những câu hỏi quằn quại còn mãi. Chỉ có điều mỗi thời đại, mỗi giai cấp,
đến lượt mình lại phải có câu trả lời riêng của mình cho những câu hỏi
đó. Giai cấp vô sản và xã hội chủ nghĩa chúng ta cũng phải trả lời những
câu hỏi đó, theo cách của ta. Và con cháu ta mai sau, đến lượt chúng,
cũng vậy.
Sau
năm 1975, có một lúc chúng ta đã ngây thơ tưởng rằng đánh giặc xong chỉ
còn nội bộ nhân dân, đồng chí với nhau, mọi quan hệ sẽ dễ dàng tốt đẹp
ngay… Mười năm qua có lẽ một trong những sự giác ngộ quan trọng nhất của
chúng ta là thấm thía hiểu ra rằng trong xã hội càng tiến lên thì cuộc
đấu tranh giữa cái tốt và cái xấu, cái thật và cái giả, cái thiện và cái
ác… không giảm, không mất đi, trái lại càng phức tạp, tinh vi, ác liệt
hơn. Cái ác dường như cứ càng dữ dội, xảo quyệt… hơn mãi, và không những
không biến đi mà chừng như ngày càng mạnh hơn. Trong cuộc vận động
quyết liệt đó cái thiện vươn lên, thắng lợi một keo. Cái ác phải lùi
lại, có lúc tưởng đã bị tiêu diệt. Nhưng rồi té ra nó chỉ chuyển đổi vị
trí. Một bộ phận của cái thiện lại chuyển sang phía cái ác. Cái ác lành
mạnh hơn. Và cuộc đấu tranh lại bắt đầu mãi mãi… Ngẫm cho cùng văn nghệ
xưa nay chính là cái nôi về cuộc đấu tranh đó.
Trong cuộc đấu tranh ấy, văn nghệ đặc biệt làm một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng: nhiệm vụ dự báo xã hội.
Có
thể coi văn học nghệ thuật như là một thứ giác quan đặc biệt, là cái
ăng-ten nhạy cảm đặc biệt của xã hội. Có những ngày đang nắng chang
chang, vậy mà mở cái radio ra cứ nghe rẹt rẹt trên các làn sóng, thì ra
gió mùa đông bắc đã ở bên kia biên giới, cơn giông sắp đến. Văn nghệ là
cái ăng-ten ấy. Puskin gọi thi sĩ là nhà tiên tri. Gorki thì nói đến Chim báo bão. Còn Nguyễn Du của ta thì viết “Bất tri tam bách dư niên hậu…”.
Dự
báo nghĩa là nói cái chưa có, mắt thường chưa thấy, tai thường chưa
nghe… Người nghệ sĩ lớn là người có con mắt tinh đời nhìn những thế lực
đang hùng hổ thống trị xã hội mà đã sớm đoán và tiên báo sự tàn lụi của
nó: nghe những mầm non của cái mới còn rất cô đơn, rất mơ hồ mà dám
khẳng định nó sẽ làm chủ tương lai… Nhà văn càng lớn thì khả năng dự báo
của họ càng xa, càng dài, càng chính xác. Tôi nghĩ cũng nên nói rõ thêm
rằng ngay chính bản thân người nghệ sĩ nhiều khi cũng không tự mình cắt
nghĩa rõ được, trình bày rõ được sự “tiên tri” của mình đâu. Nhiều khi
đó là một thứ dự cảm. Tâm hồn đặc biệt nhạy cảm của họ rung lên vì những
chấn động nào đó mà chính họ cũng chưa hiểu được hết ý nghĩa… Nhà văn
nổi tiếng G. G. Marquez có nói rằng không nên đánh giá quá thấp vai trò
của nghệ thuật, nhưng cũng không nên đề cao quá đáng vai trò đó “Xưa nay
nói cho cùng nghệ thuật cũng chưa bao giờ lật đổ được một chế độ chính
trị nào”. Quả là ở châu Mỹ Latinh đau khổ và sôi sục của ông, cho đến
nay chưa có chế độ độc tài nào bị văn nghệ lật đổ! Nhưng – ông nói – văn
nghệ lại làm một việc rất quan trọng: nó báo hiệu, nó gây men, nó chuẩn
bị tư tưởng cho những biến đổi xã hội rộng lớn, những cuộc cách mạng.
Trong ý nghĩa đó, nó đi trước. Tôi nghĩ khi nói chức năng phản ánh của
văn nghệ là phải nghĩ như vậy. Phản ánh nhưng là nói trước, chuẩn bị tư
tưởng trước, chuẩn bị tư duy mới cho xã hội, chứ không phải đi sau, ghi
chép, minh họa. Anh Nguyễn Khắc Viện có lần nói: “Nhiệm vụ của kẻ sĩ
trong mọi thời là gây dư luận”, có lẽ cũng là trong ý này.
Văn
nghệ còn có một đặc điểm là nó “la cà” trong đời sống. Và bao giờ nó
cũng là cụ thể, cá biệt, nó nói nỗi đau cụ thể, cá biệt, niềm vui cụ thể
cá biệt, số phận cụ thể, cá biệt… Nó sinh động như chính đời sống. Nó
là tiếng nói của chính đời sống. Cho nên nó có tính nhân dân, tính dân
chủ, gần như là “tự phát” vậy. Văn nghệ chính là sự khát khao mãi mãi
vươn tới cái toàn thiện toàn mỹ của con người, nó là “sự không bằng
lòng” mãi mãi của con người với thực tại. Văn nghệ có vai trò như tiếng
nói thường xuyên sinh động của đời sống kiểm tra nhắc nhở nhằm cải thiện
các hoạt động xã hội.
Cuối
cùng, từ những suy nghĩ về chức năng xã hội của văn nghệ trên đây, tôi
chỉ xin nói về một điểm trong sự đối xử với văn nghệ và văn nghệ sĩ.
Nếu
ta công nhận chức năng quan trọng của văn nghệ là dự báo xã hội, thì
cũng phải nói rằng đã là dự báo thì bao giờ cũng có ít nhất hai khả
năng: dự báo đúng và dự báo sai. Ngay dự báo thời tiết hàng ngày là cái
thứ vật chất thấy được, đo được bằng máy móc hẳn hoi… còn lắm khi sai,
báo mưa ra nắng, báo nắng ra mưa; huống hồ là dự báo xã hội, dự báo đạo
đức. Vậy khi văn nghệ có sai, nên đối xử thế nào?
Có
lần tôi được nghe một vị giáo sư già đồng thời là một nhà phê bình văn
học nổi tiếng Liên Xô, một người đã lăn lộn và trăn trở gần suốt đời
trong thực tiễn văn học Xô viết, nói về vấn đề này. Ông nói: “Nếu quả là
một người nghệ sĩ có tài, thì hôm nay họ có thể sai lầm, ngày mai họ có
thể là thiên tài”, ông cũng lại nói: “Một người nghệ sĩ có tài, thì khả
năng sửa chữa sai lầm ở họ rất lớn”. Tôi nghĩ đó là những lời nói sâu
sắc, biểu hiện quan điểm đúng đắn của Đảng Cộng sản đối với vấn đề phức
tạp và tế nhị này. Tất nhiên có được cách nghĩ như thế, cũng là trải qua
kinh nghiệm 70 năm của văn học Liên Xô đầy thành tựu mà cũng đầy sóng
gió, trong đó có cả những kinh nghiệm đã phải trả giá rất đắt, thậm chí
bằng máu.
Nhiều
đồng chí đã nói: tài năng thì hiếm. Còn cần nói thêm: tài năng nghệ
thuật lại có đặc điểm là đơn nhất, không bao giờ lặp lại. Trong nghệ
thuật cái gì đã mất là mất hẳn, không thể làm lại, không gì thay thế
được. Cho nên đến nay chính chúng ta cũng không thể biết, không thể
lường được chúng ta đã đánh mất những gì do những vụ thô bạo đã xảy ra
trước đây. Ý nghĩ đó có lẽ cứ còn theo đuổi chúng ta mãi như một món nợ.
Hôm nay nói, cũng chỉ để tiếc nuối thêm.
Và mong sao đừng bao giờ chúng ta phạm lại những điều như thế nữa.
Nguồn: Văn nghệ, Hà Nội,số 44 (31-10-1987). Theo tài liệu sưu tầm của Lại Nguyên Ân và Nguyễn Thị Bình.
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc,Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét