DẠY VÀ HỌC..Sông Thu Bồn là sông lớn của miền Trung thuộc tỉnh Quảng Nam có vị trí đặc biệt quan trọng trong dòng chảy lịch sử văn hóa dân tộc. "Có 500 năm như thế" của Hồ Trung Tú đã neo một nghiên tỉ mỉ về bản sắc văn hoá của người Quảng Nam và đất Quảng Nam trong mối tương quan chặt chẽ với văn hóa và con người Chăm pa. Đến sông Thu Bồn, thánh địa Mỹ Sơn và phố cổ Hội An, ta nhớ về đức lớn của Nhân Tông và thiên huyền sử Chế Mân & Huyền Trân công chúa của 700 năm trước. Chế Mân vị vua anh minh của vương quốc Champa đã tâm đắc với hai vua Trần, gạt bỏ điều tiếng thị phi "cắt đất Ô Rí vì tình" để nhiều lần kiến nghị với Đại Việt "xin kết thông gia, hình thành liên minh một nhà Đại Việt - Chămpa, nước lớn hơn, dân đông hơn, đủ sức chế ngự cường địch". Đó là đế quốc Angkor (Chân Lạp) ở phương Nam có đất đai rộng gấp năm lần nước Căm pu chia hiện nay và đế quốc Nguyên Mông ở phương Bắc (đã nuốt trọn Trung Quốc nhà Tống và đưa chiếu thư cho Đại Việt mượn đường để đánh Chiêm Thành). Cuộc chiến liên minh chống Nguyên Mông thăng lợi nhưng mối nhân duyên đang tốt đẹp bị tan vỡ vì Chế Mân chết (do mưu sát ?) đình thần tìm cách đưa hoàng hậu Việt lên giàn thiêu theo chồng sau được nhà Trần cứu thoát về sau đi tu . Hoàng tử Chế Đa Đa (con vua Chế Mân và hoàng hậu Huyền Trân) sau đó bị giết bởi phe chống đối Đại Việt.
Ngưỡng mộ đức Nhân Tông và cảm phận Huyền Trân công chúa, cảm thương vua Chế Mân và hoàng tử Chế Đa Đa, tôi có hai bài thơ họa vần bài "Cảm phận Huyền Trân" của Sao Khuê. như sau:
CẢM PHẬN HUYỀN TRÂN
Vì Nước đâu nề cảnh biệt ly
Nghìn trùng thăm thẳm buổi vu quy
Ngấn lệ duyên xưa đành lỗi hẹn
Khóc thầm tình mới thảm sầu bi
Hòa giải Cha nêu gương trung hiếu
Yêu thương Con chịu tiếng thị phi
(Đại Việt Diên Hồng tan thù hận
Chiêm Thành Ô Lý xóa hiềm nghi)
Chuông chùa vang vọng tan niềm tục
Núi Ngư dòng Hương mãi mãi ghi
Vì Nước đâu nề cảnh biệt ly
Nghìn trùng thăm thẳm buổi vu quy
Ngấn lệ duyên xưa đành lỗi hẹn
Khóc thầm tình mới thảm sầu bi
Hòa giải Cha nêu gương trung hiếu
Yêu thương Con chịu tiếng thị phi
(Đại Việt Diên Hồng tan thù hận
Chiêm Thành Ô Lý xóa hiềm nghi)
Chuông chùa vang vọng tan niềm tục
Núi Ngư dòng Hương mãi mãi ghi
CẢM THƯƠNG CHẾ MÂN
Vận Nước thời tàn thảm biệt ly
Dấu xưa hoang phế vứt vinh quy
Anh hùng rơi lệ lòng di hận
Vận Nước thời tàn thảm biệt ly
Dấu xưa hoang phế vứt vinh quy
Anh hùng rơi lệ lòng di hận
Liệt nữ thoát vòng dạ sầu bi
Diên Hồng chẳng thẹn lời nhân nghĩa
Diên Hồng chẳng thẹn lời nhân nghĩa
Ô Lý không nề tiếng thị phi
(Hòa giải đức cao tan thù hận
Yêu thương công lớn xóa hiềm nghi)
Yêu thương công lớn xóa hiềm nghi)
Mỹ Sơn hóa đá lìa xa cách
Sông nước Thu Bồn mãi mãi ghi
Xem thêm:Sông nước Thu Bồn mãi mãi ghi
Cảm phận Huyền Trân
Sao Khuê
Có lần trò chuyện cùng nhau, tình cờ tôi và anh PV có
nhắc đến cuộc chiến tranh Chiêm - Việt xưa và số phận của Công Chúa Huyền
Trân (CCHT). Hai anh em có cách nhìn chung về nàng Công Chúa này. Trước
nay tôi luôn cho rằng CCHT là người đoan chính, chuyện bà tư thông với
danh tướng Trần Khắc Chung (TKC) là vô lý. Có nhiều lý do để tôi tin như
thế:
-
Trần Nhân Tông là một vị vua lỗi lạc từng lập kỳ tích chiến thắng quân
Nguyên 2 lần. Sau đó khi còn rất trẻ đã từ bỏ danh lợi, thoái vị trao
ngai vàng lại cho con mà xuất gia quy y Phật pháp, trở thành tôn sư sáng
lập một Thiền phái Phật giáo. “Con nhà tông không giống lông cũng giống
cánh” - Có người cha anh hùng xuất chúng như thế thì CCHT khó thể là
đứa con hư hỏng làm ô danh hoàng tộc.- TKC là công thần qua mấy đời vua. Làm quan đến chức Nhập Nội Hành Khiển, Thượng Thư Tả Bộc Xạ (tương đương Tể Tướng). Công lao to tát đến độ được vua cho đổi sang quốc tính (họ Trần) - Xét về tuổi tác, luận về danh tiếng, đức độ...thì không lý gì ông lại làm ra chuyện xấu xa cùng CCHT để thân bại danh liệt.
- Trên chuyến vượt thoát về Đại Việt ngoài TKC còn có nhiều người khác (như An phủ sứ Đặng Vân và quân lính tùy tùng...) chứ không chỉ có TKC và CCHT hai người...
- Nếu là chuyện xấu xa thì tại sao những vị Vương Tướng cương trực cùng thời với TKC (chẳng hạn như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải...) không ai có thái độ gì?
Ngoài ra, còn bởi một lẽ riêng tư (cá nhân tôi lại cho là rất quan trọng): Khi trốn khỏi Chiêm thành thì hoàng tử Chế Đa Đa do CCHT hạ sinh mới vừa được mấy tháng tuổi không thể mang theo cùng! Lúc đó bà chẳng những là một người vợ vừa mất chồng mà còn là một người mẹ phải đoạn lìa núm ruột của mình. Cùng phận nữ, tôi vô cùng cảm thương cho CCHT. Và thử hỏi rằng trong nỗi đớn đau sinh ly tử biệt trùng trùng đến thế thì bà còn vui sướng gì mà tơ tưởng đến chuyện gió trăng???? Củng cố thêm nhận định này là sau khi về lại Đại Việt, bà đã rời bỏ cung vàng điện ngọc mà xuất gia tu hành với pháp danh là Hương Tràng!
Cũng trót nói với anh Phiêu là sẽ làm một bài thơ về nàng Công Chúa này. Chần chừ mãi, hôm nay xin trình làng “tác phẩm” cùng xóm mình. Chậc, lại là...Đường thi, thế mới ....oách! (Hihi, quý vị bloggers đọc xong đừng có mà....ném đá nhé, xin đa tạ

CẢM PHẬN HUYỀN TRÂN
Ô, Rí năm nào đổi biệt ly
Huyền Trân Công Chúa bước vu qui
Ba sinh chưa vẹn đà tan tác
Hương lửa đang nồng vội thảm bi!
Đại Việt cướp người thuyền vượt lướt
Chiêm Thành ôm hận ngựa cuồng phi
(Cũng bởi thông gia bày nghịch cảnh
Mà lời hậu thế dậy hồ nghi)
Kiên trinh há thẹn dòng Long Phụng
Trung Đẳng(*) lòng son sử sách ghi!
......................
(...): Hai câu luận của SK ban đầu đúng là không liền mạch (như anh PV đã nhận xét), vậy nên SK xin sửa lại bằng hai câu trong ngoặc đơn. Cũng xin để lại hai câu ban đầu để ghi nhớ cái lỗi về bố cục của mình

(*): Sau này CCHT chẳng những được dân chúng lập miếu thờ phượng vì linh ứng, mà còn được nhiều đời vua xưng tụng là Thần hộ quốc. Vào năm Khải Định thứ chín đã chính thức sắc phong bà là “Trai Tĩnh Trung Đẳng thần”.
Tạm biệt Huế
Thu Bồn
Bởi vì em dắt anh lên những ngôi
đền cổ
Nên chén ngọc giờ chìm dưới đáy sông sâu
Những lăng tẩm như hoàng hôn chống lại ngày quên lãng
Mặt trời vàng và mắt em nâu.
Nên chén ngọc giờ chìm dưới đáy sông sâu
Những lăng tẩm như hoàng hôn chống lại ngày quên lãng
Mặt trời vàng và mắt em nâu.
Xin chào Huế một lần anh đến
Để ngàn lần anh nhớ vô tư
Em rất thực nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với cố đô
Để ngàn lần anh nhớ vô tư
Em rất thực nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với cố đô
Áo trắng hỡi thuở tìm em không thấy
Nắng minh mang mấy nhịp Tràng Tiền
Nón rất Huế mà đời không phải thế
Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng
Nắng minh mang mấy nhịp Tràng Tiền
Nón rất Huế mà đời không phải thế
Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng
Nhịp cầu cong và con đường thẳng
Một đời anh đi mãi chẳng về đâu
Non sông giùng giằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu
Một đời anh đi mãi chẳng về đâu
Non sông giùng giằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu
Tạm biệt Huế với em là vĩnh biệt
Hải Vân ơi xin người đừng tắt ngọn sao khuya
Tạm biệt nhé với chiếc hôn thầm lặng
Anh trở về hóa đá phía bên kia.
Hải Vân ơi xin người đừng tắt ngọn sao khuya
Tạm biệt nhé với chiếc hôn thầm lặng
Anh trở về hóa đá phía bên kia.
Sông Thu Bồn và những viên ngọc lấp lánh
![]() |
Thượng lưu sông Thu Bồn |
Cũng như sông Hồng, dòng sông mẹ sinh ra kinh đô Thăng
Long nghìn năm văn vật, nay là thủ đô Hà Nội đang rộn rã chuẩn bị cho
đại lễ kỷ niệm một nghìn năm sinh nhật của mình; cũng như sông Hương,
dòng sông Thơ đã sinh ra Huế; sông Sài Gòn sinh ra thành phố cùng tên,
Thu Bồn - một dòng sông hoang dã tưởng chừng chìm đắm trong cõi vô danh,
ấy vậy mà, trên dòng chảy của mình đã lần lượt sinh ra đến bốn địa chỉ
lịch sử - văn hóa, trong đó, hai địa danh đã trở thành những giá trị
tinh thần của nhân loại.
Từ những con suối trên địa bàn các xã Trà Nam, Trà Don,
Trà Cang, Trà Vân... giữa những cánh rừng đại ngàn nức mùi hương quế
của huyện Trà My, tỉnh Quảng Nam, đã khởi nguyên một dòng sông, mà phải
chăng làn nước đượm hương của nó khi đổ về xuôi đã giúp cư dân trên hai
bờ cảm hứng siêu phàm để sáng tạo ra những kiệt tác kiến trúc vĩnh hằng?
Dòng suối nhỏ ban đầu mang một cái tên rừng núi: “dak
Di ” gom nước về xuôi. Khi qua địa bàn Tiên Phước, Hiệp Đức, suối đã
thành sông, tuy vẫn còn mang một cái tên quê mùa, dân dã: “sông Tranh”.
Phải đến địa bàn Quế Sơn, Duy Xuyên, mới trở thành một dòng sông chững
chạc với danh xưng “Thu Bồn”, sẵn sàng hợp lưu với một dòng sông chị em:
“sông Vu Gia” từ phía Bắc đổ về trên đất Đại Lộc, thành một dòng chảy
văn hóa, để sáng tạo ra những giá trị nghệ thuật tồn tại đến muôn đời.
Thánh địa Mỹ Sơn là một mỹ danh trong chuỗi địa danh văn hóa đó.
Là quần thể di tích Chămpa lớn nhất còn giữ được, Mỹ
Sơn, sau những tàn phá của thời gian, của chiến tranh, của đổi thay dâu
bể, những gì may mắn còn sót lại chỉ đủ giúp chúng ta, những chứng nhân
hậu thế kinh ngạc, sửng sốt trước tư duy uyên áo về vũ trụ, nhân sinh
của người nghệ sĩ Chămpa.
![]() |
![]() |
Tháp Chàm Mỹ Sơn - thượng nguồn sông Thu Bồn | Bước đi của thời gian |
Những thủ pháp tài hoa, bằng chứng của một năng lực
sáng tạo vô hạn thông qua ngôn từ của gạch, đá còn lại đến nay chắc chắn
chỉ là bóng dáng nhạt mờ của một thời hoàng kim lộng lẫy. Tư liệu của
các nhà nghiên cứu cho biết dưới triều vua Giaya Indravarman IV trị vì
khoảng giữa thế kỷ XII, những khối đá nhọn trên chóp các ngôi tháp lớn
nơi thánh địa Mỹ sơn đều được bọc vàng. Còn những hiện vật đang lưu giữ ở
các Bảo tàng Chàm (Đà Nẵng), Bảo tàng Mỹ thuật cung đình Huế, Bảo tàng
Lịch sử Việt nam (Louis Finot) ở Hà Nội, TP.HCM, Trường Viễn Đông Bác cổ
ở Paris, bằng đất nung hay bằng sa thạch cũng chỉ là những mảnh vụn rời
rạc, câm lặng của một quá khứ huy hoàng!
Người Chăm - một trong những thành viên của cộng đồng
dân tộc Việt - đã từng xây dựng trên dải đất miền Trung này một nền văn
minh rực rỡ và phóng tâm để lại bên sông Thu Bồn một chứng tích huy
hoàng mà chúng ta ngày nay còn may mắn được chứng kiến.
Đến thánh địa Mỹ Sơn, người giàu tưởng tượng vẫn còn có
thể hình dung quang cảnh ngày thánh lễ với hàng đoàn voi ngự lộng lẫy
trong phục sức lấp lánh kiệu vàng, trong tiếng cồng chiêng âm vang rộn
rã, và bao tiên nữ hóa thân thành những đoàn Apsara rực rỡ xiêm y đang
bay lượn trong những điệu múa của thần linh bên chân tháp cổ.
![]() |
![]() |
Mảnh vỡ nghệ thuật | Trời xanh phố cổ |
Sử cũ chép: “… Năm Giáp Tý (1744) (chúa Nguyễn) mới
xưng vương hiệu đổi phủ ra làm điện, sửa sang phép tắc, và định lại
triều phục. Lại chia nước ra làm 12 dinh” (Việt Nam sử lược - Trần Trọng Kim - NXB Văn hóa - Thông tin - 2002 - Trg 358 ). Chúa Nguyễn mở mang bờ cõi, mở rộng giao thương, xây dựng Hội An thành hải khẩu buôn bán với nước ngoài.
“Bấy giờ đất phía Nam tuy độc lập nhưng họ Nguyễn chỉ
xưng chúa, chứ không xưng vua và vẫn không đặt quốc hiệu. Nhưng người
ngoại quốc thường gọi đất chúa Nguyễn là Quảng Nam quốc. Đấy là vì ở
Quảng Nam có phố Hội An (Faifo) là chỗ người Tàu và người các nước ra
vào buôn bán nên mới lấy tên Quảng Nam mà gọi” (VNSL - Sách đã dẫn - Trg 359).
Nằm trên bờ tả sông Thu Bồn, cách cửa Đại (còn gọi là
cửa Đợi) khoảng 4km, giao thông thủy bộ thuận lợi, Hội An nhanh chóng
phát triển thành một đô thị sầm uất. Cùng với phố Hiến ở Đàng Ngoài, Hội
An trở thành một trong hai hải khẩu quan trọng của nước ta thời ấy giao
thương rộng rãi với thế giới. Cứ xem mức thuế xuất nhập khẩu thời bấy
giờ để ước lượng quy mô:
“Lệ cứ những tàu ở Thượng Hải và Quảng Đông lại, thì
phải nộp 3.000 quan, đến lúc đi phải nộp 300 quan. Tàu ở Ma Cao, ở Nhật
Bản lại, thì phải nộp 4.000 quan, đến lúc đi phải nộp 400 quan. Tàu ở
Tiêm La, ở Lã Tống lại, thì phải nộp 2.000 quan, đến lúc đi phải nộp 200
quan. Tàu ở các nước phương Tây lại, thì phải nộp 8.000 quan, đến lúc
về phải nộp 800 quan. Thuế ấy chia ra làm mười thành: 6 thành thì đem
vào kho, 4 thành để nộp cho quan lại và binh lính đã coi về việc thu
thuế…”. “… Bấy giờ số tiền có năm thu vào 338.100 quan… có năm được hơn
423.300 quan…, vàng có năm thu 830 lượng, có năm 890 lượng…” (Sách đã dẫn - Trg 353 - 354). Trước khi trở thành một địa chỉ văn hóa, Hội An từng là một thương hiệu kinh tế Việt Nam có uy tín trên bản đồ thế giới.
![]() |
![]() |
Sông Thu Bồn lướt qua Hội An đổ về cửa Đại | Một nhánh sông Thu Bồn chạy qua thánh địa Mỹ Sơn |
Thương nhân các nước đến làm ăn, mến cảnh, mến người,
định cư, lập nghiệp, Hội An nhanh chóng trở thành một đô thị quốc tế.
Bên cạnh quần thể kiến trúc đô thị giàu bản sắc địa phương, những công
trình xây dựng, những công trình tôn giáo của cư dân các nước còn giữ
được đến nay minh chứng cho một thời Việt Nam từng có lúc hội nhập rất
sâu vào đời sống quốc tế. Chẳng thế mà, UNESCO, tổ chức uy tín đầy mình
của Liên Hiệp Quốc đã ghi danh cả Mỹ Sơn và Hội An vào Danh mục Di sản
Văn hóa nhân loại.
Tin cho biết tỉnh Quảng Nam đang xúc tiến hồ sơ đệ
trình UNESCO xem xét ghi danh Cù lao Chàm - một bình phong tự nhiên dựng
lên ngoài biển khơi che chắn cho cửa Đại - vào danh mục Di sản văn hóa
nhân lọai. Còn cửa Đại, cát sạch, nước trong, đất đai bằng phẳng rộng
rãi, từng là một trong những cửa biển nổi tiếng của nước ta đang như một
cô gái trinh nguyên đón đợi đầu tư.
Tương lai, hy vọng rằng không xa, một thành phố du lịch
hấp dẫn sẽ mọc lên trên địa điểm này. Lúc ấy, sông Thu Bồn sẽ là dòng
sông duy nhất trên đất nước ta như một chuỗi ngọc xâu chuỗi cùng lúc bốn
giá trị tầm cỡ quốc tế trên dòng chảy đượm hương từ những rừng quế
thượng nguồn. Mong lắm thay.
![]() |
![]() |
Thượng nguồn sông Thu Bồn | Một nhánh sông Thu Bồn ở thượng nguồn |
![]() |
![]() |
Chùa Cầu Nhật Bản ở Hội An | Chùa Trung Hoa ở Hội An |
![]() |
![]() |
Chùa trên cầu | Phòng tranh ở phố cổ |
![]() |
![]() |
Tấp nập khách du lịch | Cửa Đại và cù lao Chàm |
![]() |
Cảnh sắc hạ lưu sông Thu Bồn
|
Theo NGUYỄN TRỌNG HUẤN
Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần
Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần
Trở về trang chính
DẠY VÀ HỌC
DẠY VÀ HỌC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét