DẠY VÀ HỌC. Tôi đang dốc lòng tìm kiếm tư liệu về Đào Duy Từ, danh nhân lỗi lạc, kỳ tài muôn thuở, làm sáng vương nghiệp Nhà Nguyễn và Đất phương Nam. Tôi có bốn, năm bài tiểu luận và ghi chép về người Thầy vĩ đại này với bài thơ cảm khái NHỚ NGƯỜI: "Ngược gió đi không nản/ Rừng thông tuyết phủ dày/ Ngọa Long cương đâu nhỉ? Đầy trời hoa tuyết bay.". Cụ Đào Tấn, một tên tuổi lớn thời Nguyễn. Giáo sư Đào Duy Anh, nhà sử học danh tiếng với công trình nghiên cứu mang tính đột phá "Đất nước Việt Nam qua các đời". Giáo sư viện sỹ Đào Thế Tuấn, cây đại thụ của nền nông nghiệp Việt Nam là con trai của giáo sư Đào Duy Anh. Học giả danh tiếng Đào Trinh Nhất là một tên tuổi lớn trong làng Văn miền Nam trước giải phóng. Tôi rất vui khi biết thêm một đầu mối tư liệu: Nguyễn Thị Minh Hồng - nhà thơ, nhà văn, nhà báo chủ lực trên tờ Gia đình - hóa ra lại chính là cháu ngoại của học giả danh tiếng Đào Trinh Nhất - Người mà nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Chú đã tôn vinh qua bài viết "Đào Trinh Nhất(1900- 1951) từ một nhà báo sáng danh đến một học giả khả kính". Soi gương kim cổ, viết về các dòng họ và những tên tuổi lớn trong lịch sử đã làm sáng danh quê hương xứ sở để giáo dục truyền thống gia đình, thiết tưởng là việc có ích cho dân trí. Thật mong lắm thay !
Những bài trong mục này:
Đào Duy Từ còn mãi với non sông
Giai thoại Đào Duy Từ
Thêm những hiểu biết về Đào Duy Từ
Nhớ Đào Duy Từ
Họ Đào và những tên tuổi lớn
Đào Duy Anh -Thung dung: Dạo chơi non nước Việt
Đào Thế Tuấn - hoangkimvietnam (10 bài tưởng nhớ)
Xem thêm:
Đào Trinh Nhất (1900-1951) từ một nhà báo sáng danh đến một học giả khả kính
Nguyễn Đình Chú
Đào Trinh Nhất là nhân vật đã được Vũ Ngọc Phan trong
Nhà văn hiện đại quyển Ba ở mục Truyện ký và lịch sử ký sự
mệnh danh là “một tay kỳ cựu trong làng văn làng báo Nam kỳ và Bắc
kỳ”. Đặc biệt, ngày ông qua đời (23-02-1951), báo chí trong Nam
ngoài Bắc đã tôn vinh, dành cho ông không ít lời tốt đẹp: “Một
lão thành trong làng báo”, “Một anh tài”, “Một kiện tướng trong văn
giới, báo giới”, “Một ký giả lão thành”, “Một nhà báo kiêm sử gia có
tiếng”, “Học vấn uyên thâm và thiên tài về nghề báo”, “Một danh
tướng trong làng báo Việt Nam”... điếu văn của chủ nhiệm báo Cải
tạo, nơi ông là chủ bút thì viết: “Nhớ anh
xưa:khoa bảng nhà dòng, văn chương nếp cũ/ Học nhiều biết nhiều, Tây
có Nho có/ đường trường dong vó ngựa, Nam tiến bao phen. Bể rộng
vượt cánh hồng, Tây du mấy độ/ Cành câu cơm áo, đường công danh dơ
gót mặt đua chen/Ngòi bút sắc đanh, trường ngôn luận thích đóng vai
tự chủ”.
Vậy mà thời gian ít nhiều đã lãng quên ông.
Ngay người viết bài này, gần nửa thế kỷ trước đã phục
ông khi đọc
Nước Nhật Bản 30 năm duy tân và Đông Kinh nghĩa thục nhưng rồi
cũng chỉ ngừng ở đấy. May mắn gần đây có ông Đào Duy Mẫn, một người
nhiệt tâm với thân tộc, sau khi thành công với tuyển tập Hoàng
giáp Đào Nguyên Phổ mà tôi cũng có tham gia trong việc giới
thiệu bài Văn sách thi Đình của cụ Hoàng Giáp cách đây vài năm, nay
lại làm tiếp Tuyển tập tác phẩm Đào Trinh Nhất và cũng mời
tôi tham gia. Quả thật lần này, nhờ sự hỗ trợ tư liệu của ông Đào
Duy Mẫn mà tôi được tiếp cận với tác giả Đào Trinh Nhất tương đối
đầy đủ hơn trước nhiều thì lòng cảm phục đã tăng lên gấp bội lần.
Tôi thấy đây là một ngòi bút có tài, có tầm, có tư
tưởng không dễ có nhiều ở đương thời, cần được làm sống dậy cho xứng
với tác giả đã đành mà còn cần cho đông đảo độc giả, những ai đang
tha thiết quan tâm đến việc kho báu văn hoá tinh thần của dân tộc
giữa thời buổi hội nhập gấp gáp, sôi động chưa từng có, được nhiều
mà mất cũng không ít.
TỪ MỘT NHÀ BÁO SÁNG DANH...
Đào Trinh Nhất xuất thân với nghề làm báo. Ông từng
là chủ bút hoặc bỉnh bút của nhiều tờ báo khắp Nam Bắc trong khoảng
30 năm trời.
Hữu Thanh tạp chí, Thực nghiệp dân báo, Trung Hoà nhật báo, Đông
Pháp (phụ trương bằng Việt ngữ của tờ France Indochine), Phụ
nữ tân văn, Thần trung, Công luận, Đuốc nhà Nam, Mai, Trung Bắc tân
văn, Trung Bắc chủ nhật, Sài Gòn mới, Ánh sáng, Tri tân, Tiểu thuyết
thứ bảy, Nước Nam, Việt thanh, Cải tạo. Thời gian du học ở Pháp
(1926-1928), ông đã viết trên Việt Nam
hồn.
Không biết trong làng báo nước ta xưa nay đã có bao
nhiêu người có mặt trên nhiều báo chí như Đào Trinh Nhất mà phần lớn
lại là báo có thanh thế, nhiều độc giả của đương thời. So với nhiều
người làm báo cùng thời, Đào Trinh Nhất có mấy điều lợi thế hẳn hoi.
-Một, ông là con của Hoàng giáp Đào Nguyên Phổ, từng
là yếu nhân của trường Đông Kinh nghĩa thục. Cái tên trường Đông
Kinh nghĩa thục là do cụ đề xuất và được chấp nhận. Cụ lại là người
làm báo đầu tiên của miền Bắc: Đốc biện (tức chủ bút) Đại Nam
đồng văn nhật báo,
chủ bút Đại Việt tân báo là tờ báo đầu tiên ở Hà Nội một
nửa bằng chữ Hán, một nửa bằng chữ quốc ngữ (năm 1905). Năm 1907,
đại Nam đồng văn nhật báo chuyển thành đăng cổ tùng báo
có quan hệ gần gũi với phong trào Đông Kinh nghĩa thục, trong
đó phần chữ Hán vẫn do cụ làm chủ bút. Trường Đông Kinh nghĩa thục
chỉ tồn tại được 9 tháng (3/1907-12/1907) thì bị giải tán. Năm 1908,
sau vụ Hà thành đầu độc binh lính Pháp, các cụ tham gia Đông Kinh
nghĩa thục bị khủng bố. Cụ Đào Nguyên Phổ bị truy lùng ráo riết.
Trong cơn nguy nam đó, để tránh phiền toái cho người thân và những
người từng cưu mang che chở cho mình, cụ đã quyên sinh. Cuộc sống
cao cả của người Cha như vậy chắc hẳn đã ảnh hưởng rất lớn
đến người con, mặc dù lúc cha qua đời thì con mới lên 8 tuổi.
- Đào Trinh Nhất chịu ảnh hưởng cha trước hết là về
nhân cách một con người đã sống chết với chính nghĩa, với lý tưởng
ích quốc lợi dân, với nhiệt tình duy tân đất nước. Và dĩ nhiên còn
là ảnh hưởng về sở thích, về khả năng làm báo trong đó có ký sự, có
sử học. Một đời cầm bút của Đào Trinh Nhất đã để lại rất rõ những
ảnh hưởng sâu đậm đó. Đây là hiện tượng cha truyền con nối, cha thế
nào, con thế ấy, khá đẹp. Đào Trinh Nhất là người con có hiếu. Có
thể chưa làm được một việc lớn như cha, nhưng ít ra cũng không làm
việc gì đi chệch hướng của cha.
- Hai, Đào Trinh Nhất cũng có điều này khác với nhiều
người làm báo đương thời. Ấy là chỗ, có những nhà báo nổi danh,
ngang hoặc hơn cả Đào Trinh Nhất như Tản Đà, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc
Kháng, Phan Khôi, Ngô Tất Tố...nhưng đến với công việc viết báo, chủ
yếu vẫn chỉ bằng văn hoá Hán học, dĩ nhiên ít nhiều đã được hiện đại
hoá. Ngược lại không ít người làm báo khác cũng nổi tiếng như Hoàng
Tích Chu hay như các cây bút của Phong hoá, Ngày nay thì hầu
hết lại chỉ có Tây học. Trong khi ở Đào Trinh Nhất là vừa Hán học,
vừa Tây học. Về Hán học, với ông, ngày học trường Đông Kinh nghĩa
thục đã có được một ít. Sau đó, học thêm và đã dự kỳ thi Hương cuối
cùng năm 1915 dù không đỗ. Về Tây học, ông là học sinh trường Quốc
tử giám ở Huế mà chương trình học vừa có Hán học vừa có Tây học. Sau
đó từ năm 1926 đến 1928, ông lại cùng Hoàng Tích Chu, Đỗ Văn du học
Pháp, chuyên ngành báo chí. Đọc vào báo phẩm, văn phẩm của Đào Trinh
Nhất, ta thấy rõ các thế mạnh, chỗ hơn nhiều người khác của ông
chính là ở vốn tri thức vừa có Hán, vừa có Tây, vừa có cổ, vừa có
kim. Và chính đó đã lộ tư cách học giả của ông ngay trên mặt báo
chí.
- Ba, cũng còn một nét khác giữa công việc làm báo
của ông so với nhiều người làm báo khác đương thời là ông ít viết
theo từng bài lẻ, mà viết theo chủ điểm lớn, viết theo hệ thống,
theo chuyên đề...để rồi xâu chuỗi lại là thành một công trình chuyên
khảo. Không ít công trình chuyên khảo của ông được in về sau là kết
quả của một trạng thái làm báo mang phong cách riêng đó.
...ĐẾN MỘT HỌC GIẢ KHẢ KÍNH
Đào Trinh Nhất đã để lại cho đất nước những tác phẩm
sau đây:
Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ
(1924), Cái án Cao Đài(1929), Đông Chu Liệt Quốc (dịch), Thần tiên
kinh (dịch), Nước Nhật Bản 30 năm duy tân (1936), Việt Nam Tây thuộc
sử (1937), Phan Đình Phùng-Nhà lãnh đạo 10 năm kháng chiến
(1886-1895) ở Nghệ Tĩnh (1937), Đông Kinh Nghĩa Thục (1937), Đời
cách mệnh Phan Bội Châu (dịch Ngục trung thư), Cô Tư Hồng (1942),
Vương An Thạch (1943), Vương Dương Minh (1943), Chu Tần tinh hoa
(1944), Lê Văn Khôi, Bùi Thị Xuân, Kẻ bán trời, Mộc Lan tòng quân,
Con trời ngã xuống đất đen (1944), Lương Ngọc Quyến và cuộc khởi
nghĩa Thái Nguyên 1917 (1946), Liêu trai chí dị (dịch - 1951) ([1])
Qua danh mục trên đây, thấy rõ Đào Trinh Nhất đã để
lại một khối lượng tác phẩm vừa đồ sộ, vừa đa dạng với nhiều thể
loại (khảo cứu, ký sự, lịch sử, tiểu thuyết, dịch thuật) thuộc phạm
vi đất nước là chính nhưng cũng có ngoài nước thuộc Đông là chính
nhưng cũng có Tây. Trong đó nổi lên ba luồng tư tưởng lớn có ý nghĩa
đối với đất nước, đối với thời đại:
-
Một, thuộc về quốc kế dân sinh.
-
Hai, thuộc về khát vọng duy tân đất
nước.
-
Ba, cuộc xâm lăng của thực dân Pháp và
những gương sáng anh hùng cứu nước.
Ngoài ba chủ điểm đích đáng đó còn là những “giai
thoại lịch sử” là những nhân vật lịch sử này khác, là cuộc đời của
một me Tây, là cuộc sống của những “con trời ngã xuống đất đen”...
Về vấn đề quốc kế dân sinh, công trình đáng giá nhất
là cuốn Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ. Chúng
ta đều biết vấn đề khách trú (chính là vấn đề Hoa kiều) trên đất
nước ta, dù hôm nay thì chính sách của nhà nước ta đã rõ, nghĩa là
coi Hoa kiều là một thành phần trong đại gia đình Việt Nam. Nhưng
trong lịch sử, vấn đề đó không đơn giản chút nào. Trước thực tế làm
ăn khôn ngoan, giỏi giang của người Hoa, ở nước ta không phải không
có người đã lo sợ đến sự lấn át của họ đối với người Việt. Một
khuynh hướng bài Hoa không phải không ít nhiều đã có, được báo chí
đương thời phản ánh.
Đào Trinh Nhất vốn tâm huyết với lịch sử dân tộc,
cũng đã đề cập tới vấn đề này qua công trình này. Điều đáng nói ngay
là cách đề cập của ông công phu hơn, nghiêm túc hơn và cũng là đúng
đắn hơn nhiều so với người đương thời.
Trước hết là bằng một sự khảo sát cụ thể, tỉ mỉ, trực
tiếp ở đây là thuộc địa phận Nam Kỳ. Từ đó cho người đọc thấy: cả
nước có 35 vạn người Hoa thì Nam Kỳ là 20 vạn và quả thật, họ đã
khôn ngoan, giỏi làm ăn hơn, do đó đã lấn át người Việt khá rõ. Và
từ sự thật không hay đó cho đát nước, ông không đặt vấn đề bài Hoa
theo tinh thần dân tộc chủ nghĩa hẹp hòi, bất lợi mà theo tinh thần
dân tộc chân chính, tỉnh táo là chủ trương di dân hai miền Trung,
Bắc vào Nam mà theo ông có hai ý nghĩa lớn:
“Một là tư bản
và nhân công hợp với nhau. Tư bản và nhân công là hai tài liệu để
lập nên một nước phú cường. Tất phải tương tri tương trợ lẫn nhau,
rời nhau ra thì đều là vô dụng, lại có hại nữa. Thế giới ngày nay
xướng lên cái chủ nghĩa tư bản và cái chủ nghĩa lao động có ý phản
đối với nhau, thường khi bọn thợ đình công mà công nghệ phải chịu
ảnh hưởng lớn, thường khi ông chủ đóng cửa xưởng mà bọn thợ đến nỗi
mất việc làm, chính cớ rành rành là nước Nga gây nên cái chính
sách lao nông mà trong nước tan tành ra đó...Nước ta, Nam Kỳ sẵn của
mà việc làm thiếu người. Trung Nam Bắc sẵn người mà làm việc thiếu
vốn, bấy lâu nay lìa rẽ với nhau, cho nên chưa thấy kinh doanh được
việc làm gì to tát cả. Vậy nên di dân vào Nam Kỳ, tức là cách kết
hợp nhân công với tư bản vậy. Vả chăng, ta cũng nên biết rằng, muốn
đạt được bao nhiêu cái kỳ vọng lớn lao của ta sau này thì phải lấy
Nam Kỳ làm trường hành động mới được.
Hai là liên
lạc được mấy xứ. Nói đến tiếng liên lạc cũng là việc chẳng đã
vì nước mình suốt từ Bắc đến Nam sinh cùng một nòi, nói cùng một
tiếng, theo cùng một văn hoá, giữ cùng một tính tình, li gián từ đâu
mà ngày nay phải nói đến chuyện liên lạc? Duy gần đây, vì sự ngẫu
nhiên của lịch sử mà mỗi xứ phục theo một chính thể riêng, cho nên
sự trao đổi tình ý với nhau không khỏi có chỗ ngăn trở đến nỗi tưởng
lầm rằng: không phải cùng nhau một lịch sử chung, một nguồn gốc
chung, một tiếng nói chung, một lễ nghĩa chung”.
Những lời lẽ trên đây cho thấy tác giả đã để lộ những
tư tưởng rất lớn khi đặt vấn đề di dân Trung Bắc vào Nam Kỳ: di dân
vào đay là để tạo ra sức mạnh cho Nam Kỳ mà cũng là cho cả nước để
cạnh tranh trước thế lực khách trú. Là để củng cố, xây dựng lại sự
thống nhất đất nước khi đã bị hao hụt do chính sách chia để trị
của thực dân, coi ba kỳ như ba xứ sở riêng biệt. Đặc biệt, trong
việc di dân Trung Bắc vào Nam Kỳ để xây dựng và phát triển, tác giả
đã chạm vào một vấn đề rất lớn của thời đại, của thế giới là
việc xử lý quan hệ giữa hai giai cấp tư bản và công
nông: đối kháng hay cộng sinh mà theo tác giả phải là cộng sinh.
Rõ ràng là thời gian đã chứng minh hùng hồn cho quan
điểm của tác giả. Những tài liệu gần đây được phát hiện của
Mác-Engghen ở giai đoạn cuối, đặc biệt là của Engghen cho
thấy quan điểm của Đào Trinh Nhất vào năm 1924 là một sự
trùng khớp và ở Việt Nam là sự đi trước thời đại. Cũng cần nói thêm:
Đào Trinh Nhất không sa vào chính sách bài Hoa bởi chính ông trong
tác phẩm còn chủ trương học tập những kinh nghiệm làm giàu của họ.
Với ông là theo quy luật cạnh tranh sinh tồn, mạnh được yếu thua. Do
đó, phải biết phát huy tối ưu vai trò của nội lực để thành kẻ mạnh
trong khi buộc phải cạnh tranh, không thể khác.
Ý nghĩa triết học chính là ở đó.
Thuộc luồng tư tưởng duy tân tự cường, với Đào Trinh
Nhất, có các tác phẩm Nước Nhật Bản 30 năm duy tân, Vương An
Thạch, Vương Dương Minh... Chúng ta đều biết: cuộc duy tân Minh
Trị của Nhật Bản từ năm 1868 là một hiện tượng thần kỳ trong lịch sử
không chỉ là ở châu Á mà còn là trên thế giới. Từ một nước chỉ toàn
đảo là đảo, nằm chơi vơi giữa biển Đông, tài nguyên cũng chẳng có là
bao, nhưng qua cuộc duy tân, với khẩu hiệu tinh thần Nhật Bản, kỹ
thuật phương Tây mà chỉ trong vòng mấy chục năm, đã trở thành
một cường quốc rồi là cường quốc thứ hai của thế giới, cùng với Thái
Lan là hai nước vẫn giữ vững độc lập dân tộc trong khi hầu hết châu
Á đã bị các đế quốc phương Tây chiếm đóng. Ngay đến cái nước Trung
Hoa khổng lồ, từng làm mưa làm gió trong khu vực trước đó thì rồi
cũng như một con voi già bị các chú sói từ trời Tây đến, con gặm
tai, con gặm má, con gặm đùi, nhục hết nói...Còn Nhật Bản không chỉ
giữ trọn độc lập mà còn chiến thắng cả một cường quốc trong chiến
tranh Nhật-Nga (1905). Và ngày nay thì đã có thể tuyên bố với thế
giới:
Tinh thần Nhật Bản, kỹ thuật Nhật Bản. Tất nhiên, bên cạnh sự
nghiệp thần kỳ đó, Nhật Bản đã sa vào chủ nghĩa phát xít, một thời
gây tội ác lớn trong khu vực, với Việt Nam ta.
Mặc dù vậy, công cuộc duy tân thần kỳ của Nhật Bản
vẫn là một hiện tượng hấp dẫn muôn đời. Ở nước ta, từ năm 1875 (Ất
Hợi) trong chế sách thi Đình, vua Tự Đức đã nêu vấn đề để hỏi các vị
Đình thí với cái ý là: “ Gần đây người ta lại rất coi trọng phương
pháp của người Tây”, “có người lại muốn thay đổi văn hiến ngàn
năm của ta, mới có thể đến cõi văn minh được. Đúng thế chăng, không
đúng thế chăng?”, “Tất có người phân biệt được. Phải chăng là họ
thấy nước Nhật Bản gấp theo công hiệu cận tiện mà cho là nên bắt
chước chăng?”.
Đúng là nhà vua đã thấy Nhật Bản nhờ duy tân học tập
phương Tây mà thịnh vượng lên. Từ đó đặt vấn đề ta có nên bắt chước
Nhật Bản không. Nếu bắt chước thì vấn đề giữ gìn văn hiến ngàn năm
phải thế nào?
Sang đầu thế kỷ 20, trong phong trào Đông Du, hướng
theo Nhật Bản duy tân, bài ca Á tế Á đã có những lời ngợi ca nồng
nhiệt công cuộc duy tân của Nhật Bản:
.... “Cờ tự lập đứng đầu phất trước,
Nhật Bản kia vốn nước đồng văn
Thái Đông(1)
nổi hiệu duy tân
Dòng Thần Vũ riêng về một họ
Sách báo Việt Nam trong 100 năm qua, đặc biệt là sau
này, hẳn đã nói nhiều về công cuộc duy tân của Nhật Bản. Nhưng công
trình Nước Nhật Bản 30 năm duy tân của Đào Trinh Nhất vẫn có
vị trí không ai thay thế được ở độ quy mô, công phu của nó và thiết
tưởng vẫn là một công trình rất cần cho những ai hôm nay đang quan
tâm thiết tha với sự nghiệp đổi mới để phát triển đất nước.
Cuốn Vương An Thạch của Đào Trinh Nhất cũng là
một cuốn sách lớn trong việc giới thiệu một kỳ tài duy tân chính trị
xã hội Trung Hoa xưa mà người Việt Nam thời trước còn ít biết. Ở đầu
sách trong mục “Thưa, có mấy lời”, Đào Trinh Nhất đã viết:
“Độc giả có lẽ phải kinh ngạc: - Quái! Trung Quốc ở thế kỷ 11 mà nảy
ra một nhà nho làm chính trị mới lạ như thế ư? Kinh công Vương An
Thạch sinh ra giữa lúc nước nhà bần nhược, cường lân đè nén,
suy xét nguyên nhân chỉ tại giáo dục thủ cựu, chính chị thủ cựu
khiến nên dân nghèo nước yếu mà ra. Ông bèn lập chí cứu quốc bằng
những chính sách duy tân , cả từ chính trị, giáo dục cho đến kinh
tế, quân sự. Không phải nghị luận mà thôi, ông được thực hành những
đại kế đã định. Tuy chí hướng không đạt, biến pháp không thành là vì
bọn nhà nho đồng thời xúm lại phá hoại, nhưng mà tư tưởng và chính
sách duy tân của ông có thể khiến cho chúng ta tưởng như ông là
người ở thế kỷ 19, 20. Hơn nữa, tưởng như ông là một nhà chính trị
bên kia trời Âu Mỹ”.
Riêng về tác phẩm thì nhà xuất bản đã viết:
“Đào Quân chịu khó kê cứu tài liệu, viết tóm tắt mà
rõ ràng, cốt chọn lựa những sự tích thiết thực, lý thú để độc giả
xem thấy vui vẻ”.
Cuốn Vương Dương Minh cũng là thêm một trường
hợp đáng giá. Vương Dương Minh (1472-1528) sống đời nhà Minh (Trung
Quốc) là một nho sĩ độc đáo, đầy chủ kiến, dám phản biện lại các
tiên nho, đặc biệt với Chu Tử- thần tượng của Tống Nho, chủ trương
nâng cấp tâm học, xác định lại lý thuyết "trí tri cách vật",
chủ trương thuyết "tri lương tri", đặc biệt là cổ động cho
thuyết "tri hành hợp nhất". Thực chất tư tưởng của Vương
Dương Minh là đặc biệt coi trọng cái tâm của con người, chống
lại lối học
huấn hỗ, giáo điều, xa rời thực tiễn, đề cao tự do tư tưởng
và tinh thần thực dụng. Tư tưởng của Vương Dương Minh được người
đời sau đánh giá là một hiện tượng cấp tiến, coi ông là người có vị
trí sau Khổng Tử dù cho đương thời lại bị chính người Trung Hoa từ
chối. Nhưng sau đó, lại được Nhật Bản đón nhận, được nhiều học giả
phương Tây rất mực đề cao. Đã có ý kiến cho rằng tư tưởng của
Vương Dương Minh là một trong mấy thành tố ban đầu đưa đến cuộc duy
tân Nhật Bản thần kỳ. Tiếc cho Trung Hoa về sau cũng đã nhận ra
giá trị của tư tưởng Vương Dương Minh nhưng thời cơ đã mất bởi đã bị
phương Tây trên đường phát triển ập đến xâu xé. Đào Trinh Nhất, bằng
một lao động khảo cứu uyên bác, không chỉ về riêng Vương Dương Minh
mà còn là tư tưởng, tình hình nho học của Trung Hoa nói chung, không
chỉ những gì giữa Vương Dương Minh với đất nước của mình mà còn lại
giữa Vương Dương Minh với các học giả phương Tây, với Nhật Bản, kể
cả Việt Nam ta, cuối cùng đã tạo nên một công trình học thuật đúng
là không dễ có nhiều.
Với Đào Trinh Nhất, ở ba công trình trên là nói
chuyện duy tân ở nước ngoài, còn với công trình Đông Kinh nghĩa
thục là chuyện của chính nước mình. Chúng ta đều đã biết trường
Đông Kinh nghĩa thục, rộng ra là phong trào Đông Kinh nghĩa
thục là một mốc son chói lọi, là một cuộc cách mạng về tư tưởng
và văn hóa lớn lao trong lịch sử dân tộc ở đầu thế kỷ 20, dù chỉ tồn
tại trong vòng 9 tháng thì đã bị kẻ thù dập tắt. Sách vở viết về
Đông Kinh nghĩa thục ngày một thêm phong phú, đặc biệt là bộ
sách 2 tập dày gần 2000 trang Đông Kinh nghĩa thục và thơ văn
Đông Kinh nghĩa thục
do Chương Thâu biên soạn trong dịp kỷ niệm ngàn năm Thăng Long vừa
qua, đã cho thấy tầm vóc văn hiến vĩ đại của Đông Kinh nghĩa thục
là như thế nào? Nhưng thử hỏi: Ai là người đi đầu trong việc
làm sống lại Đông Kinh nghĩa thục nếu không phải là Đào Trinh
Nhất, với tác phẩm Đông Kinh nghĩa thục (Mai Lĩnh, Hà Nội
-1937) đã bị nhà cầm quyền Pháp bấy giờ cấm lưu hành.Với Đào Trinh
Nhất, viết sách Đông Kinh nghĩa thục là chuyện vừa để trả mối
nợ lòng với đất nước, vừa để trả mối nợ lòng với chính thân phụ kính
yêu của mình. Một hiện tượng vừa hiếu với nước, vừa hiếu với cha,
đẹp và hiếm là thế.
Về cuộc xâm lăng của thực dân Pháp và các phong trào, các bậc anh
hùng chống Pháp thuộc chủ điểm lớn thứ ba trong tư tưởng học thuật
của Đào Trinh Nhất đã thể hiện ở các công trình:
Việt Nam Tây thuộc sử ( Đỗ Phương Quế, Sài Gòn -
1937), Phan Đình Phùng -Nhà lãnh đạo 10 năm kháng chiến (1884 -
1895) ở Nghệ Tĩnh (Cao Xuân Hữu - 1937), Đời cách mệnh Phan Bội Châu
(dịch Ngục trung thư, Mai Lĩnh - 1938), Lương Ngọc Quyến và cuộc
khởi nghĩa Thái Nguyên năm 1917 (Quốc dân thư xã - 1946).
Cuốn Đông
Kinh nghĩa thục đã nói ở trên nếu nhắc lại ở đây cũng có lý. Từ
các công trình công phu này, nổi lên trước hết là một tinh thần dân
tộc cao cả, một dũng khí hiếm hoi giữa cái thời buổi mà kẻ thù còn
đè đầu cưỡi cổ - thời kỳ mà với dân tộc, với nhân dân, nói như Đoàn
Như Khuê là "bể thảm mênh mông sóng lút trời"
hay như Chế Lan Viên là "thung lũng đau thương". Thử hỏi trên
văn đàn công khai đương thời có ai khác, ngoài Đào Trinh Nhất là
người để tâm huyết, công sức vào việc dựng lại Việt Nam Tây thuộc
sử tang tóc, đau thương này. Đúng là sau 1954, chúng ta có không
ít công trình của các sử gia Trần Huy Liệu, Tôn Quang Phiệt, Trần
Văn Giàu, Minh Tranh, Đinh Xuân Lâm...nhiều giáo trình đại học viết
về lịch sử thuộc Pháp và chống Pháp rất mực phong phú. Nhưng thử hỏi
ai là người đi đầu trong công chuyện cần thiết và cấp thiết này nếu
không là Đào Trinh Nhất. Không chỉ là người đi đầu mà còn là viết
trong nanh vuốt của kẻ thù. Rồi nữa, ai là người đi đầu trong việc
làm sống lại cuộc khởi nghĩa Cần Vương của Phan Đình Phùng với người
trợ thủ kiệt xuất Cao Thắng, cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên với vai trò
lãnh đạo của Lương Ngọc Quyến và Đội Cấn bằng một sự khảo sát tường
tận, một sự ngợi ca tột độ ngoài Đào Trinh Nhất. Chúng ta hẳn còn
nhớ năm 1908, đốc học Trần Quý Cáp khi nghe tin nhân dân Quảng Nam,
Quảng Ngãi vùng lên đấu tranh chống thuế thì thốt lên một câu: "Khoái
tai! Khoái tai!" mà ngay sau đó đã phải lên đoạn đầu đài. Chúng
ta nào đã quên cái gọi là "Văn chương quốc cấm", ai lưu hành
, ai phổ biến là dễ chết như chơi. Vậy mà Đào Trinh Nhất đã làm
những trước tác như thế. Đành rằng hai tác phẩm Việt Nam Tây
thuộc sử và Phan Đình Phùng ... là viết và in năm
1937, đúng vào thời Mặt trận bình dân mà kẻ thù phải nhẹ tay.
Dù vậy thì vẫn phải thấy ở Đào Trinh Nhất một sự nhậy bén, biết chớp
thời cơ. Do đó khỏi phải lên đoạn đầu đài, chỉ bị kẻ thù cấm lưu
hành mà thôi.
*
* *
Rõ ràng là Đào Trinh Nhất đã từ một nhà báo sáng danh
trở thành một học giả khả kính. Khả kính ở trình độ học vấn uyên
thâm, kiêm cả đông tây kim cổ. Nhưng khả kính trước hết là ở lương
tâm, ở tư tưởng thuần khiết chính nghĩa, không dễ có nhiều trong báo
giới, văn giới đương thời.
Việc lãng quên ông dù ít hay nhiều là một sự bất
công. Nhưng trước hết là một sự thiệt thòi cho đất nước.
Ấn tượng cuối cùng về
Đào Trinh Nhất ở người viết bài này là thế. Dẫu biết những gì mình
đã biết, đã viết về tiên sinh hôm nay, cũng mới chỉ là bước đầu. Xin
được quý vị cao minh, cao kiến chỉ giáo thêm./.
([1])
Dựa theo Nguyễn Đắc Lộc: “Thân thế và sự nghiệp văn chương
Đào Trinh Nhất” . Văn bản do ông Đào Duy Mẫn cung cấp
1. Thái Đông: khu vực cực đông châu Á.
[2]
Nước Nhật Bản từ khi thành lập chỉ có một dòng vua (Thiên
Hoàng).
[3]
Phù tang: tức Nhật Bản
Nguồn: Viet-Studies
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét